Đường dây nóng: 0943 113 999
Đường dây nóng: 0943 113 999
Alexandre de Rhodes sinh ngày 15.3.1591 tại Avignon thuộc Lãnh địa Giáo hoàng (nay ở miền nam nước Pháp), ông là người của Tòa thánh Roma, gốc Do Thái. Nếu là người Pháp, tại sao quyển
của ông biên soạn tại Áo Môn (Macau ngày nay) và Đàng Trong lại không có dấu ấn rõ nét của tiếng Pháp, thay vào đó ông lại biên soạn bằng tiếng
Bản đồ Đàng Ngoài và Đàng Trong theo Alexandre de Rhodes
Trên trang Facebook cá nhân, nhà nghiên cứu Trang Thư Cổ đã cung cấp hình ảnh những tài liệu tiếng Pháp, ông viết: “Gia đình cha Alexandre de Rhodes là Do Thái gốc Aragon ở miền Bắc Tây Ban Nha. Năm 1492, toàn thể cộng đồng Do Thái marrane bị trục xuất khỏi nước và đó là nguyên nhân gia đình de Rhodes qua trú ngụ ở Avignon. Cộng đồng Do Thái marrane là những người theo Do Thái giáo bị ép buộc cải đạo và dù vậy vẫn bị trục xuất” (Henri Chappoulie Rome et les missions d’Indochine – Rome và những hội truyền giáo Đông Dương, tome 1 p.5). Chính vì thế mà nên trang Wikipedia tiếng Anh không ghi Alexandre de Rhodes là người Pháp, mà chỉ ghi nhận ông là “ nhà truyền giáo Dòng tên người Avignon” (“Avignonese Jesuit missionary”).
Alexandre de Rhodes không phải là người đầu tiên và duy nhất tạo ra chữ Quốc ngữ. Công lao này do nhiều người góp sức, trong đó, đáng chú ý là công trình của hai vị linh mục Bồ Đào Nha: Gaspar d’Amaral với quyển Diccionario anamita-portugues-latin (Từ điển Annam - Bồ - Latin) và Antonio Barbosa với quyển Diccionario Portugues-Anamita (Từ điển Bồ - Annam). Đây là hai tài liệu chính, ra đời trước, giúp Alexandre de Rhodes biên soạn Từ điển Annam - Bồ - Latin. Ngoài ra, trong thời kỳ tiếng Việt phôi thai còn có sự đóng góp của những nhà truyền đạo Dòng Tên khác đến từ châu Âu.
Đường Alexandre de Rhodes ở TP.HCM
Nhưng chữ Quốc ngữ được hình thành từ loại chữ gì? Trong quyển L’origine Des Particularités de L’alphabet Vietnamien (1949), André-Georges Haudricourt cho rằng chữ Quốc ngữ hình thành từ những ký tự Latin, dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ Roman; còn trong quyển Portuguese pioneers of Vietnamese linguistics prior to 1650 (Orchid Press – 2002), Roland Jacques lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bảng chữ cái Bồ Đào Nha trong việc tạo ra chữ Quốc ngữ. Dĩ nhiên, chúng ta không bỏ qua yếu tố các dấu phụ chủ yếu từ bảng chữ cái Hy Lạp xuất hiện trong chữ Quốc ngữ.
Từ thế kỷ 17 đến nay, tiếng Việt cho thấy có nhiều sự biến đổi. Trong thời kỳ đầu tiếng Việt được ghi âm bằng những từ mà ngày nay chúng ta khó đoán ra nếu không có chú thích: Chiam (chăng), Chiuua (Chúa), dà (đã), đau (đạo), đoij (đói), gnoo (nhỏ), sayc kim (sách kinh), ungue (ông nghè), unsai (ông sãi)… Dần dà về sau càng dễ hiểu hơn: Đạy (đại); jà (già); jường (giường); hién (hiến)…
Cuối cùng, tiếng Việt đã trải qua một chặng đường dài mới được như ngày nay. Từng bước, tiếng Việt dần trở thành một ngôn ngữ giàu hình ảnh, có mức biểu cảm cao, đủ sức diễn tả mọi khía cạnh trong tư duy, tình cảm của
Xung quanh nhân vật quá nổi tiếng như Alexandre de Rhodes, chúng tôi mong có những phát hiện mới bổ sung từ phía độc giả và những nhà nghiên cứu khác để có góc nhìn đầy đủ hơn về cuộc đời và nhân thân ông.
Xã hội phát triển, rất nhiều các công ty mới được thành lập, mức độ cạnh tranh cao. Vì vậy, ngày càng nhiều hình thức kinh doanh mới lạ được ra đời. Một trong số đó phải kể đến hình thức kinh doanh OEM, vậy OEM là gì? là hàng của nước nào? sau đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu nhé:
OEM là viết tắt của từ tiếng Anh Original Equipment Manufacturer được dịch ra tiếng Việt là "Nhà sản xuất thiết bị gốc". OEM thường được dùng để chỉ những công ty thực hiện các công việc sản xuất theo đơn đặt hàng của công ty khác, sản phẩm được đưa ra thị trường dưới thương hiệu của công ty đặt làm sản phẩm. Hay nói một cách dễ hiểu OEM là một hình thức kinh doanh mà nhà sản xuất A sản xuất một loại mặt hàng bất kỳ theo yêu cầu, rồi cung cấp cho nhà sản xuất B. Nhà sản xuất B sẽ tạo ra sản phẩm mang thương hiệu của nhà sản xuất B mà không phải A để phân phối ra thị trường.
VD: Đa số các công ty sản xuất giầy da và dệt may ở Việt Nam đều hoạt động theo hình thức công ty OEM. Họ nhận các mẫu thiết kế, nguyên liệu theo yêu cầu của công ty đặt hàng sau đó sản xuất theo mẫu và gắn thương hiệu của những công ty đặt hàng lên sản phẩm.
Hiện nay giá cả hàng hóa cung cấp theo hình thức OEM sẽ thấp hơn giá sỉ. Mặt khác, OEM liên quan đến hai thành phần tham gia: công ty cung cấp sản phầm ( nhà sản xuất A) và công ty đặt hàng (nhà sản xuất B). Ở vị trí là đối tác OEM của nhà sản xuất A, nhà sản xuất B phải đảm bảo 2 yều cầu sau: Thứ nhất, nhà sản xuất B phải báo trước số lượng và yêu cầu của sản phẩm cho nhà sản xuất A dưới hình thức đơn đặt hàng hoặc hợp đồng . Để A lên kế hoạch sản xuất đảm bảo theo đúng yêu cầu và số lượng hàng được đặt. Thứ hai, nhà sản xuất B không được bán hàng OEM ra thị trường dưới dạng sản phẩm riêng lẻ mà chỉ được phép lắp ráp và bán dưới dạng một sản phẩm hoàn chỉnh về tổng thể
Điểm khác biệt giữa mô hình kinh doanh truyền thống và mô hình OEM là ở khâu sản xuất. Phương thức OEM bỏ qua toàn bộ hoặc một phần công đoạn sản xuất, nên chi phí đầu tư ban đầu của một doanh nghiệp có thể không lớn. Chính đặc điểm này đã tạo cho mô hình OEM nhiều lợi thế. Đó là có thể triển khai nhiều ý tưởng kinh doanh, thử nghiệm với nhiều sản phẩm cùng một lúc, có thể thâm nhập thị trường một cách nhanh nhất. Mặt khác, công ty sản xuất sẽ có khả năng tiếp cận được với các thành quả nghiên cứu, công nghệ mới mà công ty đặt hàng đang nắm giữ. Vì vậy, tránh trường hợp ăn cắp công nghệ các công ty đặt hàng cần phải lựa chọn nhà sản xuất, nhà cung ứng đáng tin cậy.
Mong rằng bài viết trên đã giúp bạn hiểu thế nào là OEM? Hình thức kinh doanh OEM là gì? Chúc các bạn tích lũy được nhiều kinh nghiệm và thành công nhé.