Tình Hình Kinh Tế Hà Nội Năm 2024

Tình Hình Kinh Tế Hà Nội Năm 2024

a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]

– Trong tháng Mười Một, cả nước có gần 11,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 21,3% so với tháng trước và giảm 22,6% so với cùng kỳ năm trước; có hơn 7,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 10,9% và tăng 17,4%; có 4.243 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 22,2% và giảm 5,9%; 7.550 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 39,2% và tăng 14,4%; có 1.910 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 3,9% và tăng 14,2%.

Tính chung mười một tháng năm 2024, cả nước có hơn 218,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2023; bình quân một tháng có gần 19,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 173,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có hơn 15,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường

– Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 11/2024 ước đạt 75,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 572,0 nghìn tỷ đồng, bằng 73,5% kế hoạch năm và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 bằng 76,3% và tăng 24,3%).

– Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 30/11/2024 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,38 tỷ USD, tăng 1,0% so với cùng kỳ năm trước.

– Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam mười một tháng năm 2024 ước đạt 21,68 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước.

– Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong mười một tháng năm 2024 có 151 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 555,2 triệu USD; có 22 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh 43,5 triệu USD. Tính chung mười một tháng năm 2024, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 598,7 triệu USD, tăng 51,6% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 11/2024 ước đạt 139,4 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước mười một tháng năm 2024 ước đạt 1.808,5 nghìn tỷ đồng, bằng 106,3% dự toán năm và tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 11/2024 ước đạt 170,8 nghìn tỷ đồng; lũy kế mười một tháng năm 2024 ước đạt 1.560,7 nghìn tỷ đồng, bằng 73,6% dự toán năm và tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng năm 2024

Minh Hoàng • 06/12/2024 - 15:36

Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng đầu năm 2024 của Tổng cục Thống kê cho thấy một số tín hiệu tích cực như: tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 11 tháng ước đạt 715,55 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 31,4 tỷ USD; khách quốc tế đến Việt Nam đạt 15,8 triệu lượt người, tăng 41%...

BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Tình hình thế giới tiếp tục biến động phức tạp, nhanh và khó lường với nhiều rủi ro, bất ổn. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, căng thẳng địa chính trị, xung đột quân sự leo thang ở một số quốc gia tác động đến hòa bình, ổn định trên thế giới, làm suy giảm hệ thống thương mại, đầu tư, sản xuất và tiêu dùng. Cùng với đó, thiên tai, thời tiết cực đoan ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của dân cư và phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Tuy nhiên, sau nhiều biến động, kinh tế thế giới đang dần ổn định khi thương mại hàng hóa toàn cầu được cải thiện trở lại, áp lực lạm phát giảm dần, điều kiện tài chính đang tiếp tục được nới lỏng, nguồn cung lao động gia tăng. Kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi nhưng chậm. Trong tháng 9/2024, hầu hết các tổ chức quốc tế đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ 0,1 đến 0,3 điểm phần trăm so với các dự báo trước đó, đạt từ 2,7% đến 3,2%, tương đương tăng trưởng năm 2023.

Liên Hợp Quốc (UN)[1] dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới đạt 2,7%, cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024; Fitch Ratings (FR)[2] dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,7%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2024; tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)[3] dự báo đạt 3,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 5/2024; Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)[4] dự báo đạt 3,2%, giữ nguyên so với dự báo tại thời điểm tháng 4/2024.

Trong khu vực, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng của Xin-ga-po là 2,6%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 7/2024; Thái Lan 2,3%, giảm 0,3 điểm phần trăm; giữ nguyên tăng trưởng của các nước Ma-lai-xi-a là 4,5%; In-đô-nê-xi-a 5,0% và Phi-li-pin 6,0%. Đối với Việt Nam, WB dự báo tăng trưởng GDP đạt 6,1%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 6/2024; ADB dự báo đạt 6% (không thay đổi so với dự báo trong tháng 7/2024) và IMF dự báo đạt 6,1%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với dự báo tại thời điểm tháng 4/2024.

Trong nước, cơn bão số 3 đã gây nhiều thiệt hại về người, tài sản, hạ tầng kinh tế - xã hội và sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản ở các tỉnh phía Bắc. Trước tình hình đó, với quyết tâm nhanh chóng khắc phục hậu quả của bão lũ, sớm ổn định đời sống của Nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết liệt chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện các giải pháp đặt ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2024; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024; Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ hằng tháng; Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 3. Bộ, ngành, địa phương đã theo dõi chặt chẽ những biến động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, đồng thời nỗ lực thực hiện nhiệm vụ, giải pháp đặt ra, từ đó tạo được sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2024 của nước ta tiếp tục xu hướng tích cực, các ngành, lĩnh vực đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo đà tăng trưởng cho những tháng còn lại của năm. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý III và 9 tháng năm 2024 như sau:

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2024 ước tính tăng 7,40% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,58%, chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2021 trong giai đoạn 2020-2024[5], đóng góp 4,08% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,11%, đóng góp 48,88%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo là điểm sáng của nền kinh tế với tốc độ tăng 11,41%, đây là mức tăng cao nhất của cùng kỳ các năm trong 6 năm gần đây[6]; khu vực dịch vụ tăng 7,51%, đóng góp 47,04%.

Tính chung 9 tháng năm 2024, GDP ước tăng 6,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế 9 tháng năm 2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,20%, (đóng góp 5,37%) chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2020 trong giai đoạn 2020-2024[7] do chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cơn bão số 3 trong tháng 9/2024 nên tăng trưởng thấp hơn cùng kỳ các năm trước; Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,19% (đóng góp 46,22%), trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng với tốc độ tăng 9,76%[8]; Khu vực dịch vụ tăng 6,95% (đóng góp 48,41%), trong đó một số ngành dịch vụ thị trường duy trì đà tăng trưởng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của toàn nền kinh tế như: bán buôn và bán lẻ tăng 7,56% so với cùng kỳ năm trước; ngành vận tải, kho bãi tăng 11,03%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,47%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 9,48%.

Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,64%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,10%; khu vực dịch vụ chiếm 42,80%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,46% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2023 là 11,80%; 36,98%; 42,61%; 8,61%).

Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2024, tiêu dùng cuối cùng tăng 6,18% so với cùng kỳ năm 2023, đóng góp 62,66% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 6,86%, đóng góp 36,68%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,94%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 17,05%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 0,66%.

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Trong tháng Chín bị ảnh hưởng nặng nề bởi cơn bão số 3 và mưa lớn kéo dài, gây thiệt hại lớn về trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản của nhiều tỉnh phía Bắc. Tuy vậy, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III và 9 tháng năm 2024 của cả nước vẫn duy trì tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu. Sản xuất lúa vụ đông xuân và hè thu đạt kết quả khá. Sản lượng một số cây ăn quả tăng khá so với cùng kỳ năm trước do khai thác tối đa thị trường xuất khẩu. Đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định. Sản xuất lâm nghiệp thuận lợi do giá gỗ nguyên liệu và hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ vào các thị trường chính tăng cao.

Vụ lúa hè thu năm nay cả nước gieo cấy được 1.909,2 nghìn ha, giảm 3,6 nghìn ha[9] so với vụ hè thu năm trước, chủ yếu do do ảnh hưởng của hạn hán, nhiễm mặn, nhiều địa phương chuyển đổi mục đích sử dụng đất, cơ cấu cây trồng và mùa vụ. Đến ngày 20/9/2024 cả nước thu hoạch được 1.800,4 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 94,3% diện tích gieo cấy và bằng 100,4% cùng kỳ năm trước. Theo báo cáo của các địa phương, năng suất lúa vụ hè thu năm nay ước đạt 58,1 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha so với năm trước; sản lượng ước đạt 11,1 triệu tấn, tăng 77,6 nghìn tấn.

Tính đến 20/9/2024, diện tích gieo cấy lúa mùa cả nước đạt 1.464,9 nghìn ha, bằng 99,6% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 996,6 nghìn ha, bằng 99,1%[10], các địa phương phía Nam đạt 468,3 nghìn ha, bằng 100,5%. Đến nay, lúa mùa tại các địa phương phía Bắc đang trong giai đoạn trỗ bông, một số trà lúa sớm ở giai đoạn vào chắc, chín và đã cho thu hoạch 141,9 nghìn ha, chiếm 14,2% diện tích gieo cấy và bằng 110,4% cùng kỳ năm trước.

Vụ mùa năm nay tại các tỉnh miền Bắc diễn ra trong điều kiện thời tiết bất lợi: mưa lớn kéo dài từ đầu vụ, tiếp đó là chịu ảnh hưởng liên tiếp từ hai cơn bão, đặc biệt là bão số 3 và hoàn lưu bão gây úng ngập[11]. Theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương, nhiều diện tích lúa mùa bị mất trắng[12] do ảnh hưởng của bão số 3, trong đó Bắc Giang 16,9 nghìn ha; Hải Phòng 10,1 nghìn ha; Nam Định 7,8 nghìn ha; Thái Bình 7,2 nghìn ha; Hưng Yên 5,2 nghìn ha; Thái Nguyên 5,5 nghìn ha; Lạng Sơn 4,1 nghìn ha; Yên Bái 2,4 nghìn ha; Vĩnh Phúc 1,7 nghìn ha; Hà Nam 0,8 nghìn ha.

Đến ngày 20/9/2024 các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã gieo sạ được 626,0 nghìn ha lúa thu đông, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm 2023. Diện tích lúa thu đông tăng khá do thời tiết thuận lợi, đủ nước tưới, người dân tranh thủ xuống giống. Hiện lúa thu đông đang ở giai đoạn trổ đều. Tuy nhiên, nước thủy triều dâng cao có thể ảnh hưởng đến một số diện tích lúa ở giai đoạn chắc xanh đến chín do đó cần tăng cường công tác giám sát, theo dõi, thông báo kịp thời tình hình thời tiết, sâu bệnh, đồng thời chuẩn bị các phương tiện cần thiết để bảo vệ diện tích lúa thu đông chưa thu hoạch..

Tính đến ngày 20/9/2024, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 815 nghìn ha ngô, bằng 99,0% cùng kỳ năm trước; 74,1 nghìn ha khoai lang, bằng 101,8%; 27,9 nghìn ha đậu tương, bằng 95,3%; 142,1 nghìn ha lạc, bằng 97,7%; 1.022,8 nghìn ha rau đậu các loại, bằng 100,4%. Do ảnh hưởng của cơn bão số 3, một số địa phương có diện tích rau màu bị mất trắng như Hưng Yên 2,26 nghìn ha; Bắc Giang 1,25 nghìn ha; Hà Nam 0,45 nghìn ha; Thái Bình 0,3 nghìn ha; Lào Cai 0,38 nghìn ha; Thái Nguyên 0,36 nghìn ha...

Sản lượng thu hoạch một số cây công nghiệp chủ yếu 9 tháng năm 2024 gồm: Chè búp đạt 927,3 nghìn tấn, tăng 0,1%; cao su đạt 877,6 nghìn tấn, tăng 2,7%; dừa đạt 1.574,7 nghìn tấn, tăng 5,1%; hồ tiêu đạt 244,6 nghìn tấn, tăng 3,2%. Sản lượng thu hoạch một số cây ăn quả đều tăng khá: Sầu riêng đạt 984,8 nghìn tấn, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước; xoài đạt 858,4 nghìn tấn, tăng 3,6%; cam đạt 1.084,4 nghìn tấn, tăng 2,3%; thanh long đạt 692,8 nghìn tấn, tăng 1,3%.

Chăn nuôi trâu, bò trong 9 tháng năm 2024 có xu hướng giảm[13]. Giá thịt lợn hơi tăng[14] nhưng dịch tả lợn châu Phi còn diễn biến phức tạp tại một số địa phương đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của các hộ chăn nuôi. Chăn nuôi gia cầm tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng trong tháng Chín bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 nhưng nhìn chung đàn gia cầm cả nước duy trì tăng trưởng ổn định, chăn nuôi gia cầm trong doanh nghiệp tăng trưởng khá, dịch bệnh được kiểm soát.

Một số sản phẩm chăn nuôi chủ yếu

Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước 9 tháng năm 2024 ước đạt 200,0 nghìn ha, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 71,3 triệu cây, tăng 3,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 16.068,9 nghìn m3, tăng 7,0%.

Diện tích rừng bị thiệt hại 9 tháng năm 2024[15], cả nước có 1.445,7 ha rừng bị thiệt hại, giảm 9,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích rừng bị chặt, phá là 705,3 ha, giảm 23,5%; diện tích rừng bị cháy là 740,4 ha, tăng 10,2%. Tính riêng số diện tích rừng bị ảnh hưởng, thiệt hại do cơn bão số 3 là 190,0 ha.

Hoạt động sản xuất thủy sản trong tháng Chín tại các địa phương ven biển phía Bắc bị ảnh hưởng nặng nề bởi cơn bão số 3. Tuy nhiên, nhờ kết quả sản xuất thủy sản tại các địa phương trọng điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long[16] nên hoạt động nuôi trồng thủy sản cả nước duy trì tăng trưởng.

Tổng sản lượng thủy sản 9 tháng năm 2024 ước đạt 7.019,1 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước (quý III/2024 ước đạt 2.638,4 nghìn tấn, tăng 2,2%), bao gồm: Cá đạt 4.918,3 nghìn tấn, tăng 2,3%; tôm đạt 1.081,7 nghìn tấn, tăng 4,1%; thủy sản khác đạt 1.019,1 nghìn tấn, tăng 1,2%.,

Sản lượng thủy sản nuôi trồng 9 tháng năm 2024 ước đạt 4.044,8 nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước (quý III/2024 ước đạt 1.617,4 nghìn tấn, tăng 3,4%), bao gồm: Cá đạt 2.595,2 nghìn tấn, tăng 3,8%; tôm đạt 976,0 nghìn tấn, tăng 4,5%; thủy sản khác đạt 473,6 nghìn tấn, tăng 1,7%. Riêng thiệt hại do cơn bão số 3 gây ra là 35 nghìn ha và hơn 11,8 nghìn lồng bè nuôi trồng thuỷ sản bị hư hỏng, cuốn trôi tập trung chủ yếu ở hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng. Riêng sản lượng cá tra ước đạt 1.259,5 nghìn tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 701,4 nghìn tấn, tăng 5,3%; sản lượng tôm sú đạt 210,3 nghìn tấn, tăng 2,2%.

Sản lượng thủy sản khai thác 9 tháng năm 2024, ước đạt 2.974,3 nghìn tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước (quý III/2024 ước đạt 1.021,0 nghìn tấn, tăng 0,3%), bao gồm: Cá đạt 2.323,1 nghìn tấn, tăng 0,7%; tôm đạt 105,7 nghìn tấn, tăng 0,7%; thủy sản khác đạt 545,5 nghìn tấn, tăng 0,8%.

Hoạt động sản xuất công nghiệp trong quý III/2024 tăng trưởng tích cực hơn quý trước, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp ước đạt 9,59% so với quý III/2023[17]. Tính chung 9 tháng năm 2024, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 8,34% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,76%.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2024 ước tính tăng 8,34% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 6,47%; quý II tăng 8,78%; quý III tăng 9,59%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,76% (quý I tăng 7,21%; quý II tăng 10,39%; quý III tăng 11,41%), đóng góp 2,44 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,11%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,83%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 7,01%, làm giảm 0,22 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực 9 tháng năm 2024 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thép thanh, thép góc tăng 26,7%; xăng dầu tăng 20,3%; thép cán tăng 16,8%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 15,9%; đường kính tăng 13,5%; phân hỗn hợp NPK tăng 13,3%; sữa bột tăng 12,1%; ô tô tăng 11,9%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 16,5%; khí hóa lỏng LPG giảm 15,0%; điện thoại di động giảm 7,6%; dầu mỏ thô khai thác giảm 5,9%; than đá (than sạch) giảm 4,2%; bia giảm 2,8%; Alumin giảm 2,3%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2024 giảm 2,1% so với tháng trước và tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ năm 2023 tăng 0,6%).

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/9/2024 tăng 5,2% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 8,5% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 19,4%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 9 tháng năm 2024 là 76,8% (bình quân 9 tháng năm 2023 là 85,3%).

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2024 tăng 1,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 5,2% so với cùng thời điểm năm trước.

Tình hình đăng ký doanh nghiệp[18]

Trong tháng Chín, cả nước có 11,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 92,8 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký gần 63 nghìn lao động, giảm 16,3% về số doanh nghiệp, giảm 25,5% về vốn đăng ký và giảm 12,3% về số lao động so với tháng 8/2024. So với cùng kỳ năm trước, giảm 5,0% về số doanh nghiệp, giảm 5,8% về số vốn đăng ký và giảm 16,3% về số lao động. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 8,3 tỷ đồng, giảm 11,1% so với tháng trước và giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, cả nước còn có gần 6,5 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 23,7% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2023.

Tính chung 9 tháng năm 2024, cả nước có gần 121,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là hơn 1.158,5 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký hơn 735,0 nghìn lao động, tăng 3,4% về số doanh nghiệp, tăng 3,4% về vốn đăng ký và giảm 3,4% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng năm 2024 đạt 9,5 tỷ đồng, tương đương cùng kỳ năm 2023. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 9 tháng năm 2024 là 2.310,5 nghìn tỷ đồng, giảm 6,1% so với cùng kỳ năm 2023. Bên cạnh đó, cả nước có hơn 61,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 25,0% so với cùng kỳ năm 2023), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong 9 tháng năm 2024 lên hơn 183,0 nghìn doanh nghiệp, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân một tháng có hơn 20,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Cũng trong 9 tháng năm 2024, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 86,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước; gần 61,5 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 33,4%; gần 15,4 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 18,9%. Bình quân một tháng có 18,2 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2024 cho thấy: Có 34,7% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý II/2024; 42,6% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 22,7% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn[19]. Dự kiến quý IV/2024, có 42,2% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý III/2024; 40,4% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 17,4% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.

Nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước phục hồi cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của du lịch đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành thương mại dịch vụ từ đầu năm đến nay. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2024 tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hành khách tăng 7,4% và luân chuyển tăng 12,2%; vận chuyển hàng hóa tăng 13,7% và luân chuyển tăng 10,5%; khách quốc tế đến Việt Nam tăng 43,0%; số lượt người Việt Nam xuất cảnh tăng 6,1%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành quý III/2024 ước đạt 1.591,0 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% so với quý trước và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 4.703,4 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 10,1%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,8% (cùng kỳ năm 2023 tăng 7,6%). Theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm 2024 ước đạt 3.630,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 543,0 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6%; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 45,6 nghìn tỷ đồng, tăng 16,7%; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 484,6 nghìn tỷ đồng, tăng 9,2%.

Trong 9 tháng năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 3.660,2 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 13,2%) và luân chuyển đạt 204,6 tỷ lượt khách.km, tăng 12,2% (cùng kỳ năm trước tăng 26,7%). Vận tải hàng hóa ước đạt 1.917,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 14,6%) và luân chuyển 393,4 tỷ tấn.km, tăng 10,5% (cùng kỳ năm trước tăng 11,3%).

D­­oanh thu hoạt động viễn thông chin tháng năm 2024 ước đạt 265,9 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,9%). Tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối tháng 9/2024 ước đạt 121,7 triệu thuê bao, giảm 4,6% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó, số thuê bao di động là 119,3 triệu thuê bao, giảm 4,8%[20]; số thuê bao truy nhập internet băng rộng cố định ước đạt 23,8 triệu thuê bao, tăng 5,9%.

Trong tháng 9/2024[21], khách quốc tế đến nước ta đạt gần 1,3 triệu lượt người, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 12,7 triệu lượt người, tăng 43,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số 12,7 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng năm nay, khách đến bằng đường hàng không đạt gần 10,8 triệu lượt người, chiếm 84,9% lượng khách quốc tế đến Việt Nam và tăng 38,7% so với cùng kỳ năm trước; bằng đường bộ đạt gần 1,8 triệu lượt người, chiếm 13,8% và tăng 68,1%; bằng đường biển đạt gần 165,7 nghìn lượt người, chiếm 1,3% và tăng 158,7%.

Số lượt người Việt Nam xuất cảnh[22] trong tháng 9/2024 là 421,8 nghìn lượt người, giảm 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, số lượt người Việt Nam xuất cảnh đạt 4,1 triệu lượt người, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước.

Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán

Lãi suất cho vay giảm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng trưởng tín dụng đạt khá. Thị trường bảo hiểm khởi sắc, doanh thu phí bảo hiểm bắt đầu tăng trở lại. Thị trường chứng khoán ghi nhận những tín hiệu phục hồi tích cực, thanh khoản thị trường cải thiện rõ rệt.

Tính đến thời điểm 27/9/2024, tổng phương tiện thanh toán tăng 5,10% so với cuối năm 2023 (cùng thời điểm năm trước tăng 5,40%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 4,79% (cùng thời điểm năm trước tăng 6,63%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 8,53% (cùng thời điểm năm trước tăng 6,24%).

Về thị trường bảo hiểm, tổng doanh thu phí bảo hiểm quý III/2024 ước đạt 56,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng năm 2024, tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 165,5 nghìn tỷ đồng, giảm 0,4%. Trong đó, doanh thu phí lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 58,5 nghìn tỷ đồng, tăng 12,9%; lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ ước đạt gần 107 nghìn tỷ đồng, giảm 6,5%.

Về thị trường chứng khoán, chính sách nới lỏng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tạo động lực dẫn dắt nhà đầu tư trong nước quay trở lại thị trường chứng khoán.

Trên thị trường cổ phiếu, tính đến ngày 30/9/2024, chỉ số VNIndex đạt 1.287,94 điểm, tăng 0,32% so với cuối tháng trước và tăng 13,98% so với cuối năm 2023; mức vốn hóa thị trường (đến ngày 17/9/2024) đạt 6.904,7 nghìn tỷ đồng, tăng 16,3% so với cuối năm 2023. Trong tháng 9/2024, giá trị giao dịch bình quân đạt 13.426 tỷ đồng/phiên, giảm 28,0% so với bình quân tháng trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, giá trị giao dịch bình quân đạt 22.655 tỷ đồng/phiên, tăng 28,9% so với bình quân năm 2023.

Trên thị trường trái phiếu, giá trị giao dịch bình quân trong tháng 9/2024 đạt 10.666 tỷ đồng/phiên, giảm 3,4% so với bình quân tháng trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, giá trị giao dịch bình quân đạt 10.807 tỷ đồng/phiên, tăng 65,9% so với bình quân năm 2023.

Mặt bằng lãi suất cho vay có xu hướng giảm, sản xuất phục vụ xuất khẩu tăng trưởng tốt, các chính sách về miễn giảm, giãn, hoãn thuế tiếp tục được triển khai hỗ trợ các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh đã thúc đẩy đầu tư mới và mở rộng sản xuất, tăng cường thu hút và thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội. 9 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành ước đạt 2.417,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ước đạt 17,34 tỷ USD, tăng 8,9%.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 9 tháng năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 2.417,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn khu vực Nhà nước đạt 664,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,5% tổng vốn và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 1.336,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,3% và tăng 7,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 415,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,2% và tăng 10,7%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam[23] tính đến ngày 30/9/2024 bao gồm: vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 24,78 tỷ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn đăng ký cấp mới có 2.492 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt gần 13,55 tỷ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước về số dự án và tăng 11,3% về số vốn đăng ký; có 1.027 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 7,64 tỷ USD, tăng 48,1% so với cùng kỳ năm trước; có 2.471 lượt đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 3,59 tỷ USD, giảm 26,2% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, có 932 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 1,86 tỷ USD; 1.539 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1,73 tỷ USD).

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 9 tháng năm 2024 ước đạt 17,34 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 9 tháng năm 2024 có 105 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 177,5 triệu USD, giảm 27,5% so với cùng kỳ năm trước; có 20 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh 12,0 triệu USD, giảm 93,0%. Tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) 9 tháng năm 2024  đạt 189,6 triệu USD, giảm 54,5% so với cùng kỳ năm trước.

Thu, chi ngân sách Nhà nước[24]

9 tháng năm 2024 ước tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, hỗ trợ các địa phương bị thiệt hại do cơn bão số 3, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.

Tổng thu ngân sách Nhà nước 9 tháng năm 2024 ước đạt 1.448,2 nghìn tỷ đồng, bằng 85,1% dự toán năm và tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa  ước đạt 1.203,1 nghìn tỷ đồng, bằng 83,3% và tăng 18,9%; thu từ dầu thô ước đạt 44,4 nghìn tỷ đồng, bằng 96,6% và giảm 2,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 200,2 nghìn tỷ đồng, bằng 98,1% và tăng 17,6%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước 9 tháng năm 2024 ước đạt 1.256,3 nghìn tỷ đồng, bằng 59,3% dự toán năm và tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi thường xuyên ước đạt 856,5 nghìn tỷ đồng, bằng 68,0% và tăng 6,8; chi đầu tư phát triển đạt 320,6 nghìn tỷ đồng, bằng 47,3% và giảm 11,8%; chi trả nợ lãi 77,3 nghìn tỷ đồng, bằng 69,2% và tăng 6,6%.

Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ[25]

Trong tháng Chín, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 65,81 tỷ USD, giảm 8% so với tháng trước và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 578,47 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 15,4%; nhập khẩu tăng 17,3%[26]. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 20,79 tỷ USD.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 9/2024 sơ bộ đạt 34,05 tỷ USD, giảm 9,9% so với tháng trước. Quý III/2024, kim ngạch xuất khẩu sơ bộ đạt 108,6 tỷ USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước và tăng 10,6% so với quý II/2024. Tính chung 9 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 299,63 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 83,47 tỷ USD, tăng 20,7%, chiếm 27,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 216,16 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 72,1%. Có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 66,4%).

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 9/2024 sơ bộ đạt 31,76 tỷ USD, giảm 5,9% so với tháng trước. Quý III/2024, kim ngạch nhập khẩu sơ bộ đạt 99,74 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước và tăng 6,1% so với quý II/2024. Tính chung 9 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 278,84 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 100,85 tỷ USD, tăng 18,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 177,99 tỷ USD, tăng 16,5%. Có 40 mặt hàng nhập khẩu đạt giá trị trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 91,5% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 3 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 45%).

Cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ tháng Chín xuất siêu 2,29 tỷ USD. Tính chung 9 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ xuất siêu 20,79 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 22,1 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 17,38 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 38,17 tỷ USD.

Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ 9 tháng năm 2024 ước đạt 17,4 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó dịch vụ du lịch đạt 8,8 tỷ USD (chiếm 50,6% tổng kim ngạch), tăng 33,4% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ vận tải đạt 4,9 tỷ USD (chiếm 28,1%), tăng 7,9%.

Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 9 tháng năm 2024 ước đạt 26,6 tỷ USD (trong đó đã tính trong phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm của hàng hóa nhập khẩu là 8,8 tỷ USD), tăng 26,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 10,7 tỷ USD (chiếm 40,2% tổng kim ngạch), tăng 17,7%; dịch vụ du lịch đạt 9,3 tỷ USD (chiếm 34,7%), tăng 68%.

Nhập siêu dịch vụ 9 tháng năm 2024 là 9,2 tỷ USD.

Giá lương thực, thực phẩm tăng cao tại các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng trực tiếp bởi bão và hoàn lưu bão; một số địa phương thực hiện tăng học phí theo lộ trình của Nghị định số 97/2023/NĐ-CP[28]; giá thuê nhà ở tăng là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2024 tăng 0,29% so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng Chín tăng 2,18% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2,63%. CPI bình quân quý III/2024 tăng 3,48% so với quý III/2023. Tính chung 9 tháng năm nay, CPI tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,69%.

Trong 9 tháng năm 2024, thị trường hàng hóa toàn cầu chịu tác động bởi diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thế giới. Các cuộc xung đột leo thang, gây bất ổn đối với an ninh, hòa bình thế giới. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục gay gắt. Trong nước, hoạt động sản xuất hàng hóa, dịch vụ duy trì theo hướng tăng trưởng ổn định, bảo đảm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phục vụ xuất khẩu. Chỉ số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp, dịch vụ, nguyên nhiên vật liệu quý III và 9 tháng năm 2024 có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước, trong khi chỉ số giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa giảm theo thị trường thế giới.

Trong mức tăng 0,29% của CPI tháng 9/2024 so với tháng trước, có 09 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, trong đó nhóm giáo dục tăng cao nhất với mức tăng 2,09%; tiếp đến nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,92%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng tăng 0,52%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,24%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,15%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,14%; nhóm bưu chính, viễn thông tăng 0,09%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,03%. Hai nhóm hàng có chỉ số giá giảm gồm: nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,24% và nhóm giao thông giảm 2,77%.

Chỉ số giá vàng tháng 9/2024 tăng 1,88% so với tháng trước; tăng 22,66% so với tháng 12/2023; tăng 32,27% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 26,27%.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2024 giảm 1,79% so với tháng trước; tăng 1,7% so với tháng 12/2023; tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng năm 2024 tăng 5,46%.

Chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất

Chỉ số giá sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản quý III/2024 ước tăng 1,47% so với quý II/2024 và tăng 9,34% so với cùng kỳ năm trước; tương tự Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp có mức tăng tương ứng là 0,07% và tăng 1,51%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 0,61% và tăng 5,59%. Tính chung 9 tháng, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 8,07% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 0,67%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 6,6%.

Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý III/2024 ước tăng 0,42% so với quý trước và tăng 3,63% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất tăng 2,65% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,77%; dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,9%; dùng cho xây dựng tăng 0,2%.

Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Quý III/2024, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa ước giảm 0,11% so với quý trước và giảm 0,43% so với cùng kỳ năm 2023; chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tương ứng tăng 0,33% và giảm 0,71%; Tỷ giá thương mại hàng hóa (TOT)[29] tương ứng giảm 0,44% và tăng 0,28%. Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa giảm 1,44% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa giảm 1,73%; tỷ giá thương mại hàng hóa tăng 0,29%.

Thị trường lao động, việc làm trong quý III/2024 tiếp tục khởi sắc với lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động[30] tăng so với quý trước và tăng so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm giảm so với quý trước và giảm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,5 triệu người, tăng 210,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; lao động có việc làm là 51,4 triệu người, tăng 212 nghìn người; thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng 519 nghìn đồng; tỷ lệ thất nghiệp là 2,26%, giảm 0,02 điểm phần trăm và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,99%, giảm 0,03 điểm phần trăm.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý III/2024 ước tính là 52,7 triệu người, tăng 114,1 nghìn người so với quý trước và tăng 238,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,5% tương ứng giảm 0,1 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 28,5%, tương ứng tăng 0,4 điểm phần trăm và tăng 1,2 điểm phần trăm. Tính chung 9 tháng năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,5 triệu người, tăng 210,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,5%, giảm 0,4 điểm phần trăm; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 28,1%, tăng 1,3 điểm phần trăm.

Lao động có việc làm quý III/2024 ước tính là 51,6 triệu người, tăng 114,6 nghìn người so với quý trước và tăng 244,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, lao động có việc làm là 51,4 triệu người, tăng 212 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động[31] quý III/2024 là 861,4 nghìn người, giảm 86,7 nghìn người so với quý trước và giảm 79,5 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý III/2024 là 1,87%, cùng giảm 0,19 điểm phần trăm so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 914,1 nghìn người, giảm 8,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,99%, giảm 0,03 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước

Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động[32] quý III/2024 là 2,24%, giảm 0,05 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,06 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,29%; khu vực nông thôn là 2,2%. Tính chung 9 tháng, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,26%, giảm 0,02 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,55%; khu vực nông thôn là 2,07%.

Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng[33] quý III/2024 là 4,2% (tương ứng với khoảng 2,2 triệu người), trong đó khu vực thành thị là 3,4% và khu vực nông thôn là 4,7%. Tính chung 9 tháng năm 2024, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 4,3%, không đổi so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 3,8% giảm 0,5 điểm phần trăm; khu vực nông thôn là 4,6%, tăng 0,2 điểm phần trăm.

Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Theo kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống dân cư năm 2024[34] tình hình đời sống dân cư trong 9 tháng năm 2024 được cải thiện hơn. Thu nhập bình quân đầu người một tháng trong kỳ 9 tháng năm nay ước đạt gần 5,4 triệu đồng/người/tháng, trong đó thành thị đạt gần 6,7 triệu đồng/người/tháng và nông thôn là gần 4,7 triệu đồng/người/tháng. So với năm 2023, thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2024 tăng 7,8%, cao hơn mức tăng thu nhập năm 2023 so với 2022 (tăng 6,2%).

Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, các ngành và địa phương thực hiện kịp thời, hiệu quả. Theo báo cáo từ địa phương, trong 9 tháng năm nay (tính đến ngày 25/9/2024), lãnh đạo trung ương và địa phương, các ban, ngành, đoàn thể, các nhà hảo tâm cũng đã tổ chức thăm hỏi, động viên và tặng quà cho nhiều đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là 19,6 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là hơn 4 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là gần 26,6 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ đột xuất, bất thường phát sinh tại địa phương là 1,84 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, bảo hiểm xã hội đã cấp phát hơn 26,6 triệu thẻ BHYT, sổ, thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng

Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong tháng Chín, tính đến ngày 25/9/2024, Chính phủ đã có các quyết định cấp 432,6 tấn gạo hỗ trợ cho người dân chịu ảnh hưởng nặng nề trong cơn bão số 3. Tính chung 9 tháng năm 2024, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã hỗ trợ cho người dân gần 21,8 nghìn tấn gạo, trong đó: Chính phủ hỗ trợ 10,4 nghìn tấn gạo cứu đói nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn cho 693,4 nghìn nhân khẩu; hỗ trợ hơn 5,9 nghìn tấn gạo cứu đói giáp hạt năm 2024 cho 396,3 nghìn nhân khẩu và 432,6 tấn gạo cho gần 28,9 nghìn nhân khẩu chịu ảnh hưởng do thiên tai.

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến hết tháng tháng 8/2024, cả nước có 6.292/8.162 (khoảng 77,1%)[35] xã đạt chuẩn nông thôn mới; trong đó 2.163 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (tăng 17 xã so với tháng 7/2024); 471 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (tăng 06 xã); bình quân cả nước đạt 17,1 tiêu chí/xã; có 296 đơn vị cấp huyện thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (chiếm 46% số huyện cả nước) hoàn thành nhiệm vụ đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 11 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Có 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.

Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2023-2024, cả nước có 2.323 điểm thi với 45.149 phòng thi và 1.071,4 nghìn thí sinh đăng ký dự thi (tăng 4,6% so với năm 2022-2023), trong đó, số thí sinh đăng ký trực tuyến là 1.014,0 nghìn thí sinh, chiếm 94,65%; tổng số học sinh dự thi là 1.067,3 nghìn thí sinh, chiếm 99,6% số thí sinh đăng ký dự thi. Số học sinh đủ điều kiện xét tốt nghiệp là 1.025,4 nghìn thí sinh. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2023-2024 đạt 99,39%, tăng 0,51 điểm phần trăm so với năm 2023-2024.

Tính đến 20/6/2024[36], trên địa bàn toàn quốc đối với giáo dục mầm non: có 15.269 trường mầm non (giảm 0,04% so với năm học 2022-2023); 365,2 nghìn giáo viên mầm non (tăng 2,8%) và 4,85 triệu trẻ em đi học mầm non (giảm 3,4%); đối với giáo dục phổ thông: có 25.901 trường phổ thông (giảm 0,6% so với năm học 2022-2023), bao gồm: 12.170 trường tiểu học, 8.580 trường trung học cơ sở; 2.371 trường trung học phổ thông và 2.780 trường phổ thông nhiều cấp học. Tổng số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy là 829,9 nghìn thầy cô (tăng 2,7%), bao gồm: 390,6 nghìn giáo viên tiểu học, 292,3 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 147,0 nghìn giáo viên trung học phổ thông. Tổng số học sinh phổ thông toàn quốc là 18,4 triệu học sinh (tăng 1,6%); bao gồm: 8,9 triệu học sinh tiểu học; 6,5 triệu học sinh trung học cơ sở và gần 3 triệu học sinh trung học phổ thông.

Về giáo dục nghề nghiệp[37], tính đến tháng 8/2024, cả nước có 1.878 cơ sở giáo dục nghề nghiệp gồm: 392 trường cao đẳng (công lập: 291 trường, tư thục: 98 trường, có vốn đầu tư nước ngoài: 03 trường); 428 trường trung cấp (công lập: 199 trường, tư thục: 228 trường, có vốn đầu tư nước ngoài: 01 trường); 1058 Trung tâm giáo dục nghề nghiệp, Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên (công lập: 698 trung tâm, tư thục: 358 trung tâm, có vốn đầu tư nước ngoài: 02 trung tâm).

Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm[38]

Trong 9 tháng năm 2024, cả nước có 74,8 nghìn người mắc bệnh sốt xuất huyết (11 ca tử vong); hơn 46,9 nghìn người mắc bệnh tay chân miệng; 3,7 nghìn người sốt phát ban nghi sởi; 67 người tử vong do bệnh dại; 347 người mắc bệnh viêm não vi rút (06 ca tử vong); 14 người mắc viêm màng não do não mô cầu; 01 người mắc cúm A bị tử vong và 01 người mắc bệnh bạch hầu.

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/9/2024 là 244,4 nghìn người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 115,5 nghìn người.

Về ngộ độc thực phẩm, trong 9 tháng 2024 (từ ngày 19/12/2023 đến 18/9/2024) cả nước xảy ra 89 vụ ngộ độc thực phẩm làm 3.378 người bị ngộ độc (11 người tử vong).

Công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa luôn được quan tâm; thể thao phong trào được duy trì, thể thao thành tích cao có đạt nhiều thành tích đáng ghi nhận.

Trong quý III/2024 đoàn thể thao Việt Nam đã tham gia và đạt giải tại một số sự kiện như: Tuyển Wushu Việt Nam giành 4 huy chương vàng, đứng vị trí thứ 4 tại Giải Thái cực quyền thế giới 2024 tại Xin-ga-po; Giải vô địch Trượt băng tốc độ đường ngắn châu Á 2024 tại In-đô-nê-xi-a; Việt Nam dẫn đầu Giải đá cầu vô địch châu Á 2024 và vô địch trẻ châu Á 2024 với 8 huy chương vàng, 6 huy chương bạc diễn ra tại Thừa Thiên - Huế; Giải Cờ vua các nhóm tuổi ASEAN mở rộng năm 2024 tại Lào từ ngày 22-31/8; giành 3 huy chương vàng, 2 huy chương bạc, 9 huy chương đồng, đứng hạng 4 tại Giải wushu vô địch châu Á 2024; giành 3 huy chương vàng, xếp vị trí thứ hai tại giải Karate vô địch châu Á 2024 tại Trung Quốc; giành huy chương bạc Giải World Championship Billiards 2024.

Tháng Chín số vụ tai nạn giao thông giảm 0,8%, so với tháng trước và giảm 14,2% so với cùng tháng năm trước. Tính chung 9 tháng số vụ tai nạn giao thông tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng Chín (từ 26/8/2024 25/9/2024), cả nước đã xảy ra 1.760 vụ tai nạn giao thông, làm chết 906 người và bị thương 1.251 người. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ tai nạn giao thông giảm 14,2%, số người chết giảm 12,0% số người bị thương giảm 14,7%.

Tính chung 9 tháng năm 2024 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 17.629 vụ tai nạn giao thông, làm chết 8.045 người, bị thương 13.167 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 7,2%; số người chết giảm 9,7%; số người bị thương tăng 17,4%. Bình quân một ngày trong 9 tháng năm 2024, trên địa bàn cả nước xảy ra hơn 64 vụ tai nạn giao thông, làm chết 29 người, bị thương 48 người.

Do ô nhiễm môi trường và cháy, nổ ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân ở một số địa phương.

Thiệt hại do thiên tai trong tháng Chín và chín tháng năm 2024 chủ yếu do ảnh hưởng mưa lũ và bão, đặc biệt là cơn bão số 3. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến ngày 30/9/2024, cơn bão số 3 làm 345 người chết, mất tích; 1.978 người bị thương; 4.713 nhà sập đổ; 401.275 nhà bị hư hại, ngập nước; khoảng 286,6 nghìn ha lúa, hơn 63,3 nghìn ha hoa màu bị hư hại; 44,5 nghìn con gia súc, hơn 5,76 triệu con gia cầm bị chết, cuốn trôi. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng của các địa phương nơi cơn bão đi qua và hoàn lưu sau bão cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng: Hệ thống giao thông bị chia cắt, thông tin liên lạc bị mất kết nối; trường, lớp học bị thiệt hại ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh, cây xanh đô thị bị gãy đổ nhiều... Ước tính giá trị thiệt hại lên tới 81,8 nghìn tỷ đồng.

Cũng trong chín tháng năm nay trên địa bàn cả nước các cơ quan chức năng[40] đã phát hiện 17,3 nghìn vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 15,8 vụ với tổng số tiền phạt là 224,7 tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung chín tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.193 vụ cháy, nổ, làm 85 người chết và 87 người bị thương, thiệt hại ước tính 217,4 tỷ đồng, giảm 39,8% so với cùng kỳ năm trước./.

[1] UN (Tháng 9/2024), “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới - cập nhật tháng 9/2024”, https://www.un.org/development/desa/dpad/wp-content/uploads/sites/45/WESP-2024_September_2024_WEB.pdf, truy cập ngày 26/9/2024.

[2] FR (Tháng 9/2024), “Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 9/2024”, https://www.fitchratings.com/research/sovereigns/global-economic-outlook-september-2024-10-09-2024, truy cập ngày 26/9/2024.

[3] OECD (Tháng 9/2024), “Báo cáo Triển vọng kinh tế OECD sơ bộ: Rẽ ngoặt”, https://www.oecd.org/en/publications/oecd-economic-outlook-interim-report-september-2024_1517c196-en.html, truy cập ngày 26/9/2024.

[4] IMF (Tháng 7/2024), “Triển vọng kinh tế thế giới cập nhật - Nền kinh tế toàn cầu đang trong tình trạng bế tắc”, https://www.imf.org/-/media/Files/Publications/WEO/2024/Update/July/English/text.ashx, truy cập ngày 26/9/2024.

[5] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III các năm 2020-2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 3,11%; 2,52%; 4,67%; 4,30%; 2,58%. Quý III/2021 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ tăng 2,52% do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giãn cách xã hội đã làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản, biến đổi khí hậu, chi phí sản xuất đầu vào tăng cao và dịch tả lợn châu Phi.

[6] Tốc độ tăng/giảm giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý III các năm 2019-2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 10,38%; 3,46%; -4,83%; 11,24%; 5,59%; 11,41%.

[7] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm 9 tháng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2024 lần lượt là: 1,90%; 3,84%; 3,66%; 3,71% và 3,20%. Trong 9 tháng năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, xâm nhập mặn và dịch tả lợn châu Phi nên tăng thấp.

[8] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng các năm 2011-2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 12,06%; 8,10%; 5,91%; 6,21%; 8,78%; 10,49%; 10,76%; 11,51%; 9,91%; 3,20%; 4,36%; 9,99%; 1,94% và 9,76%.

[9] Trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long ước đạt 1.469,8 nghìn ha, giảm 4,6 nghìn ha.

[10] Vùng Đồng bằng sông Hồng gieo cấy 456,2 nghìn ha, bằng 99,1% cùng kỳ năm trước; vùng Trung du và miền núi phía Bắc đạt 407,3 nghìn ha, bằng 99,3%; vùng Bắc Trung Bộ đạt 133,1 ha, bằng 98,6%.

[11] Theo dự báo của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, thời gian tới khả năng thời tiết tiếp tục có mưa vừa, mưa to ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Để khắc phục ảnh hưởng do mưa bão, thực hiện tốt kế hoạch sản xuất vụ mùa năm 2024, đồng thời tập trung triển khai kế hoạch sản xuất rau màu vụ Đông 2024-2025, ngành Nông nghiệp đã chỉ đạo các địa phương theo dõi sát sao diễn biến thời tiết, chủ động thực hiện các biện pháp chuẩn bị ứng phó thiên tai trong thời gian tới.

[12] Theo Nghị định số 94/2022/NĐ-CP ngày 07/11/2022 của Chính phủ quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc Hệ thống chỉ tiêu Thống kê quốc gia: “Diện tích cây hằng năm bị mất trắng: Là diện tích cây trồng sau khi kết thúc thời kỳ gieo trồng, chuyển sang thời kỳ sinh trưởng, phát triển chịu ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh… dẫn đến sản lượng thu được dưới mức 30% so với sản lượng sản xuất ở điều kiện bình thường”.

[13] Chăn nuôi trâu, bò lấy thịt giảm chủ yếu do điều kiện chăn nuôi khó khăn, chi phí chăn nuôi cao, lợi nhuận mang lại thấp, dẫn đến việc giảm số lượng đầu con. Tuy nhiên, đàn bò sữa vẫn phát triển ổn định.

[14] Giá thịt lợn hơi thời điểm 29/9/2024 dao động trong khoảng 64.000 - 70.000 đồng/kg tùy từng địa phương.

[15] Số liệu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tính đến 15/9/2024.

[16] Đồng Bằng sông Cửu Long chiếm hơn 70% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản cả nước.

[17] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý III các năm 2012-2024 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 8,17%; 4,85%; 6,59%; 9,29%; 7,9%; 9,93%; 9,45%; 9,38%; 2,38%; -4,6%; 10,69%; 4,51%; 9,59%.

[18] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 03/10/2024. Thực hiện Nghị định số 62/2024/NĐ-CP ngày 07/6/2024 của Chính phủ (có hiệu lực kể từ ngày 01/8/2024), thời kỳ số liệu về đăng ký doanh nghiệp trong tháng được tính từ ngày 01 đến ngày cuối cùng của tháng báo cáo. Riêng đối với các chỉ tiêu thời điểm (doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể), thời kỳ số liệu các tháng trước thời điểm 01/8/2024 được tính từ ngày 21 của tháng trước tháng báo cáo đến ngày 20 của tháng báo cáo.

[19] Chỉ số tương ứng của quý II/2024: Có 37,4% số doanh nghiệp đánh giá tốt hơn so với quý I/2024; 41,6% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 21,0% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.

[20] Số thuê bao di động giảm là do số lượng thuê bao điện thoại di động 2G giảm theo lộ trình thực hiện mục tiêu Chương trình chuyển đổi số quốc gia và ngành Thông tin và Truyền thông tăng cường quản lý thuê bao di động trả trước, kiểm soát, hạn chế tối đa, tiến tới xóa bỏ SIM rác nên số lượng thuê bao di động đăng ký mới giảm đáng kể. Bộ Thông tin và Truyền thông lùi thời điểm dừng công nghệ di động 2G trên toàn quốc đến ngày 15/10/2024 (theo kế hoạch là cuối tháng 9/2024).

[21] Kỳ báo cáo từ ngày 26/8/2024-25/9/2024.

[22] Là công dân Việt Nam ra khỏi lãnh thổ Việt Nam qua cửa khẩu của Việt Nam.

[23] Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 30/9/2024.

[24] Theo Báo cáo số 245/BC-BTC ngày 27/9/2024 của Bộ Tài chính về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước tháng 9 và 9 tháng năm 2024.

[25] Kim ngạch xuất khẩu tính theo giá F.O.B và kim ngạch nhập khẩu tính theo giá C.I.F (bao gồm chi phí vận tải, bảo hiểm của hàng nhập khẩu).

[26] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2023 đạt 497,4 tỷ USD, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 259,7 tỷ USD, giảm 8,2%; nhập khẩu đạt 237,7 tỷ USD, giảm 13,9%.

[27] Tổng kim ngạch và giá trị mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ tháng 9/2024 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 04/10/2024.

[28] Nghị định số 97/2023/NĐ-CP ngày 31/12/2023 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 8 năm 2021 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.

[29] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.

[30] Điều tra thu nhập của người lao động được tính trễ 01 tháng. Thu nhập của người lao động là số tiền công/tiền lương hoặc lợi nhuận nhận được từ công việc (bao gồm tiền làm thêm giờ, tiền thưởng, tiền phụ cấp nghề và tiền phúc lợi khác) trong tháng trước thời điểm điều tra. Thu nhập bình quân một lao động đang làm việc là tổng thu nhập của tất cả lao động đang làm việc so với tổng số lao động đang làm việc.

[31] Người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động gồm những người có việc làm mong muốn làm thêm giờ; sẵn sàng làm thêm giờ; thực tế làm dưới 35 giờ/tuần.

[32] Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên mà trong thời kỳ tham chiếu có đầy đủ cả 03 yếu tố: Hiện không làm việc, đang tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm giữa số người thất nghiệp so với lực lượng lao động.

[33] Lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đủ công việc (hay còn gọi là lao động không sử dụng hết tiềm năng) bao gồm những người thất nghiệp, thiếu việc làm và một nhóm ngoài lực lượng lao động sẵn sàng làm việc nhưng không tìm việc hoặc có tìm việc nhưng chưa sẵn sàng làm việc ngay. Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là tỷ số giữa lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đầy đủ công việc so với tổng số lao động có nhu cầu làm việc trong nền kinh tế.

[34] Khảo sát mức sống dân cư năm 2024 được tiến hành hằng quý vào tháng giữa quý.

[35] Nguyên nhân số xã đạt chuẩn NTM giảm so với kỳ báo cáo trước: do Văn phòng điều phối nông thôn mới đã rà soát lại và đánh giá toàn diện các tiêu chí, số xã đã được UBND cấp tỉnh có Quyết định công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới chỉ còn 6.292 xã.

[36] Theo số liệu ước tính của Bộ Giáo dục và Đào tạo

[37] Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

[39] Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải) ngày 29/9/2024.

[40] Theo báo cáo từ Sở Tài nguyên và Môi trường, Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được các Cục Thống kê tổng hợp.

Năm 2024 là năm bứt phá, có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng tốc và phấn đấu thực hiện hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2021-2025. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, dự báo tình hình KT-XH vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục bị tác động bởi diễn biến bất lợi của tình hình thế giới và khu vực; thị trường bất động sản chưa thực sự khởi sắc; đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn; sự phục hồi của các doanh nghiệp sau dịch COVID-19 còn chậm; trong khi đó, các yếu tố nền tảng cho sự phát triển của tỉnh như hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ,... chưa đáp ứng yêu cầu.

Trong bối cảnh đó, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch hành động số 44/KH-UBND ngày 10/01/2024 thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Kế hoạch số 163/KH-UBND ngày 25/01/2024 và các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về nhiệm vụ giải pháp chủ yếu  thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2024 để chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung, khẩn trương tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu quả ngay từ đầu năm các giải pháp, điều hành của Chính phủ về ưu tiên, thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng; khắc phục khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ, vận hội mới, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để quyết tâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Các hội nghị về đẩy nhanh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, công tác thu ngân sách, công tác giao chỉ tiêu thu tiền sử dụng đất và phát triển quỹ đất năm 2024,… được UBND tỉnh tổ chức khẩn trương và chỉ đạo cụ thể, quyết liệt.

Nhờ đó, KT-XH 6 tháng đầu năm 2024 tỉnh Quảng Bình đã đạt những kết quả tích cực: Kinh tế ổn định và tăng trưởng khá, GRDP 6 tháng đầu năm dự ước tăng 6,50% (xếp hạng về tăng trưởng đứng thứ 29 cả nước và đứng thứ 8/14 các tỉnh Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung); sản xuất vụ Đông Xuân đạt kết quả cao; khai thác thủy sản phát triển ổn định; sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá; du lịch tăng trưởng nhanh; môi trường đầu tư từng bước được cải thiện; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống văn hóa và tinh thần của người dân tiếp tục được nâng cao; tình hình chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội được bảo đảm;...

Kết quả ước tính của một số chỉ tiêu chủ yếu 6 tháng đầu năm 2024 như sau:

- Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá so sánh 2010 đạt 14.927,7 tỷ đồng, tăng 6,50% [1] so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước tăng 6,90%; kế hoạch năm 2024 tăng 7,0-7,5%);

- Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 2010 tăng 2,93% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2023 tăng 2,54%; kế hoạch năm 2024 tăng 3,0 - 3,5%);

- Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng theo giá so sánh 2010 tăng 9,58% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2023 tăng 8,04%); Trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 7,77% (6 tháng đầu năm 2023 tăng 7,04%; kế hoạch năm 2024 tăng 8,0-8,5%);

- Giá trị sản xuất dịch vụ theo giá so sánh 2010 tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2023 tăng 8,05%; kế hoạch năm 2024 tăng 7,5-8,0%);

- Cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 19,66%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 29,17% (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); khu vực dịch vụ chiếm 51,17%;

- Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân 2023 - 2024 đạt 213.160,5 tấn, tăng 2,1% so với vụ Đông Xuân năm trước và vượt 10,6% kế hoạch;

- Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm đạt 44.403,6 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ;

- Sản lượng thủy sản đạt 47.584,5 tấn, tăng 2,8% với cùng kỳ năm trước;

- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 14.255,1 tỷ đồng, tăng 10,0% so với cùng kỳ năm trước;

- Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 25.590,9 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước.

Theo công bố của Tổng cục Thống kê, ước tính tổng sản phẩm (theo giá so sánh năm 2010) trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2024 đạt 14.927,7 tỷ đồng, tăng 6,50% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 2.731,0 tỷ đồng, tăng 2,96%, đóng góp 0,62 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 3.998,9 tỷ đồng, tăng 7,96%, đóng góp 2,33 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đạt 7.709,1 tỷ đồng, tăng 7,03%, đóng góp 4,0 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 488,7 tỷ đồng, tăng 6,90% so với cùng kỳ năm 2023, đóng góp 0,25 điểm phần trăm trong tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh.

Hình 1. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2024

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Sáu tháng đầu năm 2024, sản xuất vụ Đông Xuân 2023 - 2024 trong điều kiện thời tiết khá thuận lợi, công tác gieo trồng các loại cây hàng năm đảm bảo tiến độ và lịch thời vụ. Năng suất, sản lượng cây lúa và nhiều loại cây trồng tăng so với vụ Đông Xuân năm trước. Hoạt động chăn nuôi nhìn chung phát triển ổn định, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng so với cùng kỳ. Sản xuất thuỷ sản mặc dù gặp một số khó khăn, nhưng tranh thủ thời tiết thuận lợi, các địa phương tích cực vận động ngư dân vươn khơi, bám biển nên sản lượng thuỷ sản có tăng so với cùng kỳ năm trước.

Khu vực công nghiệp - xây dựng: Sản xuất công nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước. Một số năng lực mới được đầu tư và đi vào hoạt động như Nhà máy giấy Quảng Bình - Công ty Cổ phần Xenlulo Quảng Bình, Nhà máy sản xuất viên nén gỗ Dũng Nguyệt Anh, Nhà máy bê tông Nghi Sơn Quảng Bình,… góp phần thúc đẩy tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Đối với lĩnh vực xây dựng - đầu tư, ngay từ đầu năm 2024, bên cạnh nhiều công trình, dự án lớn tiếp tục được triển khai thực hiện, một số công trình, dự án mới được khởi công, nhiều công trình đầu tư xây dựng của khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình cũng được khởi công xây dựng trong những tháng đầu năm góp phần thúc đẩy tăng trưởng khu vực này.

Khu vực dịch vụ: Cùng với sự phát triển các ngành sản xuất, 6 tháng đầu năm 2024, hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn tiếp tục đạt kết quả tích cực. Ngành Du lịch phát triển đã kích thích nhu cầu tiêu dùng xã hội, thị trường giá cả ổn định, cân đối cung cầu vật tư quan trọng và hàng tiêu dùng thiết yếu được đảm bảo,… Nhu cầu du lịch tăng mạnh nên các ngành dịch vụ liên quan như: Bán lẻ hàng hoá, dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành, vận tải, các dịch vụ vui chơi, giải trí,... có nhiều khởi sắc. Ngành Du lịch Quảng Bình cũng đã đẩy mạnh và làm tốt công tác quảng bá du lịch cùng với nhiều hoạt động lễ hội được tổ chức với quy mô lớn, chất lượng dịch vụ tốt làm cho số lượt khách đến Quảng Bình tăng cao. Khu vực này là khu vực đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng chung của cả tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2024 (đóng góp 4,0 điểm % trong tống số 6,50% tăng trưởng GRDP).

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sáu tháng đầu năm 2024, sản xuất vụ Đông Xuân 2023 - 2024 trong điều kiện thời tiết đầu vụ tương đối thuận lợi, nên công tác gieo trồng các loại cây hàng năm thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo lịch thời vụ đề ra; năng suất lúa và một số loại cây trồng khác tăng. Chăn nuôi phát triển ổn định, công tác phòng chống dịch bệnh, kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, vận chuyển đảm bảo an toàn. Sản xuất lâm nghiệp tập trung thực hiện công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, khai thác gỗ từ rừng trồng, phòng cháy và chữa cháy rừng. Hoạt động khai thác, nuôi trồng thuỷ sản phát triển ổn định theo hướng bền vững gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thuỷ sản, thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác xa bờ; nhân rộng các mô hình nuôi thuỷ sản công nghệ cao tại một số địa phương.

* Sản xuất vụ Đông Xuân 2023 - 2024

Sản xuất vụ Đông Xuân năm nay trong điều kiện thời tiết đầu Vụ tương đối thuận lợi cho bà con nông dân gieo cấy đảm bảo đúng tiến độ, cơ bản hết diện tích, giống lúa được đáp ứng đầy đủ, có chất lượng cao; công tác tưới, tiêu được chủ động, điều tiết hợp lý. Từ ngày 02 - 06/5/2024, trên địa bàn tỉnh xuất hiện các đợt mưa giông làm một số diện tích lúa bị đổ ngã, tuy nhiên về cơ bản diện tích lúa đổ ngã đã chín, một số địa phương đã thu hoạch gần xong trước đó nên không  ảnh hưởng nhiều đến năng suất, sản lượng lúa.

Ước tính diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm nay thực hiện 53.917,1 ha, giảm 0,1% so với vụ Đông Xuân năm trước. Trong đó, diện tích lúa thực hiện 29.228,5 ha, giảm 0,5% so với vụ Đông Xuân năm trước. Diện tích lúa ở các địa phương: Đồng Hới 837,4 ha, giảm 1,6%; Ba Đồn 2.601,0 ha, giảm 0,9%; Minh Hóa 490,1 ha, giảm 4,1%; Tuyên Hóa 1.436,4 ha, giảm 0,4%; Quảng Trạch 3.482,0 ha, tăng 0,6%; Bố Trạch 5.088,5 ha, giảm 1,2%; Quảng Ninh 5.189,0 ha, tăng 0,1%; Lệ Thủy 10.104,1 ha, giảm 0,5% so với vụ Đông Xuân năm trước. Diện tích gieo trồng một số cây trồng chủ yếu: Ngô 4.115,4 ha, tăng 1,5%; khoai lang 2.304,2 ha, tăng 1,1%; sắn 7.283,0 ha, tăng 8,7%; mía 175 ha, tăng 0,1%; lạc 2.619,5 ha, giảm 14,1%; rau các loại 4.466,0 ha, tăng 0,04%; đậu các loại 491,0 ha, tăng 0,5% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Hình 2. Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân

Nhờ sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự cố gắng của bà con nông dân nhằm nâng cao chất lượng giống, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nên năng suất, sản lượng của cây lúa vụ Đông Xuân năm nay ước tính tăng so với vụ Đông Xuân năm trước.

Ước tính năng suất một số cây trồng chủ yếu vụ Đông Xuân 2023 - 2024 như sau: Năng suất lúa bình quân chung cả tỉnh đạt 64,71 tạ/ha, tăng 3,5% so với vụ Đông Xuân năm trước. Các loại cây trồng khác: Ngô đạt 58,09 tạ/ha, giảm 5,4%; khoai lang đạt 81,36 tạ/ha, tăng 0,8%; lạc đạt 24,17 tạ/ha, giảm 0,2%; cây rau các loại đạt 108,98 tạ/ha, tăng 0,6%; đậu, đỗ các loại đạt 9,15 tạ/ha, giảm 0,6% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân năm 2023 - 2024 ước đạt 213.160,5 tấn, tăng 2,1% so với vụ Đông Xuân năm trước. Trong đó: Sản lượng thóc 189.123,3 tấn, tăng 3,0% so với năm trước; sản lượng lương thực khác 24.037,2 tấn, giảm 4,5% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm nay giảm, năng suất và sản lượng một số loại cây trồng chủ yếu tăng so với vụ Đông Xuân năm trước. Nhờ sự chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp đã điều chỉnh cơ cấu diện tích cây trồng chuyển dịch theo hướng tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Công tác chuyển giao và áp dụng tiến bộ khoa học được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ vào sản xuất đạt kết quả tốt, nhờ đó đã tạo được sự ổn định về tăng năng suất, sản lượng cây trồng. Vấn đề đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng được quan tâm đẩy mạnh. Nổi bật là công tác gieo trồng bằng các loại giống mới, giống nguyên chủng, giống cấp I có thời gian sinh trưởng phù hợp, chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh khắc nghiệt và cho năng suất cao được đưa vào sản xuất.

* Triển khai sản xuất vụ Hè Thu 2024

Ngay sau khi hoàn thành thu hoạch lúa Đông Xuân, các địa phương tập trung vào việc triển khai sản xuất vụ Hè Thu đảm bảo đúng lịch thời vụ. Đồng hành với nông dân, ngành Nông nghiệp và các địa phương đã triển khai nhiều giải pháp để đảm bảo vụ Hè Thu năm 2024 có kết quả tốt như: Hướng dẫn cơ cấu cây trồng, thời vụ; xây dựng kế hoạch gieo trồng và phương án chống hạn cho cây trồng, phương án phòng trừ sâu bệnh ngay từ đầu Vụ; chuẩn bị triển khai các phương án phòng tránh diễn biến bất thường của thời tiết, nhằm thu hoạch trước mùa mưa bão, giảm thiểu thiệt hại có thể xảy ra,… Ngoài ra, các địa phương khuyến khích người dân sử dụng các giống lúa cực ngắn và ngắn ngày, có năng suất, chất lượng, chống chịu khá với sâu bệnh, điều kiện ngoại cảnh bất thuận và hướng dẫn các biện pháp kỹ thuật để giảm chi phí trong sản xuất lúa vụ Hè Thu,... Hiện tại nông dân các địa phương trên địa bàn tỉnh đã và đang xuống giống vụ Hè Thu.

Tính đến ngày 06/6/2024, diện tích lúa Hè Thu đã gieo 15.481 ha, trong đó: Đồng Hới 775 ha, Ba Đồn 2.200, Minh Hóa 460 ha, Tuyên Hóa 1.107ha, Quảng Trạch 3.376 ha, Bố Trạch 2.700 ha, Quảng Ninh 3.501 ha, Lệ Thủy 1.362 ha.

Sáu tháng đầu năm 2024, thời tiết tương đối thuận lợi đã tạo điều kiện tốt cho quá trình sinh trưởng và phát triển cây lâu năm; sản xuất cây lâu năm được phục hồi và phát triển khá so với cùng kỳ năm trước. Các địa phương tập trung chăm sóc, đồng thời triển khai chuyển đổi một số cây kém hiệu quả sang trồng mới một số cây có hiệu quả, mang lại giá trị kinh tế cao, phù hợp điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng của từng địa phương như thanh long, mít, bưởi, ổi, chanh leo,… Theo đó, diện tích cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước và có sự chuyển dịch theo hướng mở rộng diện tích các loại cây có thị trường tiêu thụ ổn định, hiệu quả kinh tế cao.

Tổng diện tích cây lâu năm hiện có 17.960,8 ha, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cây lâu năm chia theo các nhóm cây như sau: Cây ăn quả 4.319,9 ha, tăng 0,3%; cây lấy quả chứa dầu 53,2 ha, tăng 1,3%; cây hồ tiêu 957,3 ha, giảm 3,8%; cây cao su 12.223,4 ha, tăng 1,2%; cây chè 198,3 ha, tăng 13,8%; cây gia vị, cây dược liệu lâu năm 87,2 ha, giảm 5,2%; cây lâu năm khác 121,7 ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng một số cây trồng chủ yếu 6 tháng đầu năm 2024 như sau: Cao su 3.499 tấn, tăng 1,3%; hồ tiêu 669 tấn, giảm 1,5%; chuối 9.495 tấn, tăng 1,1%; cam 500 tấn, tăng 1,0%; bưởi 651 tấn, giảm 0,6%; dứa 772 tấn, tăng 2,3%; mít 1.407 tấn, tăng 0,9%; nhãn 180 tấn, giảm 0,6%; vải 257 tấn, giảm 0,4%; xoài 315 tấn, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước.

Sản xuất chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2024 nhìn chung phát triển ổn định. Số lượng đàn trâu, bò giảm do một số địa phương không tái đàn; đàn lợn tăng trưởng khá, công tác phòng dịch, kiểm soát giết mổ, vận chuyển luôn được quan tâm, đảm bảo an toàn thực phẩm, giá thịt lợn hơi tăng làm động lực thúc đẩy bà con nông dân tăng gia sản xuất và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn; đàn gia cầm phát triển tốt, không có dịch bệnh lớn xảy ra, sản lượng xuất chuồng tăng cao nhằm đảm bảo nguồn cung đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong dịp lễ, phục vụ nhu cầu du lịch, ăn uống trên địa bàn tỉnh.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý II/2024  đạt 21.844,7 tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu đạt 443,0 tấn, giảm 6,1%; thịt bò đạt 1.938,0 tấn, giảm 15,5%; thịt lợn đạt 12.614,6 tấn, tăng 3,6%; thịt gia cầm đạt 6.849,1 tấn, tăng 6,7% (trong đó: thịt gà đạt 5.234,3 tấn, tăng 8,0%) so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2024 đạt 44.403,6 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu đạt 901,0 tấn, giảm 5,2%; thịt bò đạt 3.995,0 tấn, giảm 15,2%; thịt lợn đạt 25.723,0 tấn, tăng 4,5%; thịt gia cầm đạt 13.784,6 tấn, tăng 6,6% (trong đó: thịt gà đạt 10.555 tấn, tăng 7,9%) so với cùng kỳ năm trước.

Hình 3. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trâu, bò giảm mạnh do giá trâu, bò hơi giảm, hiệu quả kinh tế không cao nên một thời gian dài người chăn nuôi không tái đàn, đặc biệt đàn bò của Công ty TNHH chăn nuôi Hòa Phát Quảng Bình đã xuất bán hết từ lâu và chưa tái đàn sản xuất. Sản lượng thịt gà xuất chuồng tăng cao do công tác vệ sinh thú ý thực hiện tốt, không có dịch bệnh lớn xảy ra, đàn gà phát triển mạnh.

Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm:

- Bệnh Dịch tả lợn châu Phi: Hiện nay còn 01 xã có dịch chưa qua 21 ngày (xã Xuân Hóa, huyện Minh Hóa). Lũy kế đến ngày 28/5/2024, dịch bệnh đã xảy ra ở 4 hộ/3 thôn/3 xã/3 huyện làm 35 con lợn buộc tiêu hủy với trọng lượng 1.509 kg.

- Bệnh Viêm da nổi cục trên trâu bò: Hiện còn 2 xã (xã Tiến Hóa, huyện Tuyên Hóa và xã Quảng Châu, huyện Quảng Trạch) có dịch chưa qua 21 ngày. Lũy kế đến ngày 04/6/2024, dịch bệnh đã xảy ra tại 39 hộ/22 thôn/12 xã/4 huyện (Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Quảng Ninh và Bố Trạch) làm 57 con bò mắc bệnh, trong đó có 13 con bò chết với trọng lượng 1.928 kg [2].

Sản xuất lâm nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 ở các địa phương tập trung chủ yếu vào việc chăm sóc, trồng dặm, trồng bổ sung và triển khai trồng cây phân tán; khai thác gỗ từ rừng trồng, tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng và tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng cho người dân, tổ chức tập huấn công tác phòng chống, cháy rừng trước khi bước vào mùa nắng nóng.

Ước tính diện tích rừng trồng mới quý II/2024 thực hiện 2.019 ha, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 thực hiện 3.712 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, các chủ rừng đang tiến hành chăm sóc rừng lần 1 đối với diện tích rừng trồng mới đúng tiến độ.

Sản lượng gỗ khai thác quý II/2024 ước đạt 178.713 m3, tăng 11,4% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 275.680 m3, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng củi khai thác quý II/2024 ước đạt 91.711 ste, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng đầu năm ước đạt 140.120,0 ste, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước.

Công tác bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm. Triển khai kịp thời công tác tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng cho người dân vùng có rừng; tổ chức tập huấn công tác phòng, chống cháy rừng cho các chủ rừng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát phá rừng trái phép,… Từ đầu năm đến nay, thời tiết nắng nóng kéo dài, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 8 vụ cháy rừng, diện tích bị cháy 31,36 ha, diện tích rừng bị thiệt hại 9,26 ha [3].

Những tháng đầu năm 2024, thời tiết tương đối thuận lợi cho việc khai thác và nuôi trồng thủy sản, sản lượng khai thác và thu hoạch thủy sản tăng. Tình hình dịch bệnh cơ bản kiểm soát tốt, các hộ nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục thu hoạch sản phẩm nuôi trồng; đồng thời cải tạo, tu sửa, gia cố hồ, ao nuôi, bờ đê ruộng lúa để chuẩn bị cho vụ nuôi mới.

Ước tính sản lượng thủy sản quý II/2024 đạt 29.806,5 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 24.847,7 tấn, tăng 2,7%; tôm đạt 1.398,1 tấn, tăng 1,8%; thuỷ sản khác đạt 3.560,7 tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm 2024 đạt 47.584,5 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 39.605,2 tấn, tăng 3,0%; tôm đạt 2.386,3 tấn, tăng 2,0%; thuỷ sản khác đạt 5.593,0 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước.

Trong 6 tháng đầu năm 2024, khai thác thuỷ sản còn gặp một số khó khăn: Một số tàu đánh bắt hải sản bị hạn chế vùng ngư trường do các ngành chức năng tăng cường công tác chống khai thác IUU; một số tàu thuyền gặp nạn do giông lốc; một số tàu cá thiếu lao động chất lượng cao,... Tuy nhiên nhờ thời tiết tương đối thuận lợi, giá các mặt hàng thuỷ sản duy trì ổn định, nhu cầu tiêu thụ hải sản tăng mạnh nên bà con ngư dân tăng cường vươn khơi bám biển, duy trì khai thác nên sản lượng khai thác thuỷ sản tăng so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng khai thác thuỷ sản quý II/2024 đạt 26.602,7 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 22.657,7 tấn, tăng 2,7%; tôm đạt 441,2 tấn, tăng 1,4%; thuỷ sản khác đạt 3.503,8 tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng khai thác thủy sản ước 6 tháng đầu năm đạt 42.294,1 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá đạt 35.985,2 tấn, tăng 3,0%; tôm đạt 836,0 tấn, tăng 1,8%; thủy sản khác đạt 5.472,9 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác chia theo ngư trường: Khai thác biển 40.630,0 tấn tăng 2,9%; khai thác nội địa 1.664,1 tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.

Hiện nay, các cấp, các ngành chức năng và bà con ngư dân đang thực hiện hoạt động khai thác gắn liền với bảo vệ nguồn lợi thủy sản, chống khai thác hợp pháp, hạn chế các vi phạm khi đánh bắt. Nhờ vậy, sản lượng khai thác của đội tàu các địa phương được duy trì và cơ bản đảm bảo an toàn khi sản xuất. Trong quá trình sản xuất, các sở, ngành, lực lượng chức năng thường xuyên chỉ đạo và triển khai các giải pháp chống khai thác IUU.

Sáu tháng đầu năm 2024, nuôi trồng thuỷ sản khá ổn định, thời tiết thuận lợi, ít dịch bệnh nên sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng nuôi trồng thu hoạch quý II/2024 đạt 3.203,8 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 2.190,0 tấn, tăng 2,8%; tôm đạt 956,9 tấn, tăng 2,0%; thuỷ sản khác đạt 56,9 tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng nuôi trồng thu hoạch 6 tháng ước đạt 5.290,4 tấn, tăng 3,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 3.620,0 tấn, tăng 3,4%; tôm đạt 1.550,3 tấn, tăng 2,1%; thủy sản khác đạt 120,1 tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.

Các loại thủy sản được khuyến khích đưa vào nuôi là tôm thẻ chân trắng, tôm sú, nuôi cua, cá lồng trên sông và các loại cá truyền thống kết hợp đa dạng hóa sản phẩm nuôi trồng. Hiện nay, một số địa phương trong tỉnh đã và đang thực hiện mô hình nuôi hàu đại dương thử nghiệm trên sông; nuôi hàu treo dây ở vùng cửa sông là mô hình mới, bước đầu các hộ dân đã nuôi đạt tỷ lệ sống cao, kỳ vọng sẽ mang lại hiệu quả kinh tế bền vững trong thời gian tới.

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh các cơ sở sản xuất hiện có đang duy trì hoạt động ổn định (cơ sở chế biến thực phẩm, đồ uống, sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất, sản xuất và phân phối điện,…), một số năng lực mới được đầu tư và đi vào hoạt động trong thời gian qua (Nhà máy giấy Quảng Bình - Công ty Cổ phần Xenlulo Quảng Bình, Nhà máy sản xuất viên nén gỗ Dũng Nguyệt Anh, Nhà máy bê tông Nghi Sơn Quảng Bình,…) đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Ước tính giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 6 tháng đầu năm 2024 tăng 7,77% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 6 năm 2024 tăng 4,4% so với tháng trước và tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 8,8%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp quý II năm 2024 tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 2,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 6,3%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,0%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,1%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất trong 6 tháng đầu năm 2024 của một số ngành cấp 2 tăng so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng gấp 24,1 lần (tăng cao do Nhà máy giấy Quảng Bình - Công ty CP Xenlulo Quảng Bình mới đi vào hoạt động); sản xuất đồ uống tăng 24,5%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 12,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn ghế) tăng 9,3%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 9,2%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 8,3%. Một số ngành cấp 2 giảm so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 0,6%; khai thác quặng kim loại giảm 2,3%; sản xuất trang phục giảm 2,9%; khai khoáng khác giảm 9,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su plastic giảm 11,8%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 32,7% (ngành sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm mạnh do sản phẩm thuốc tiêu thụ giảm sút nên doanh nghiệp giảm sản xuất).

Hình 6. Chỉ số sản xuất công nghiệp

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong 6 tháng đầu năm 2024: Quặng titan đạt 23.227 tấn, giảm 2,3%; đá xây dựng đạt 1.329,1 nghìn m3, giảm 9,9%; cao lanh đạt 30.062 tấn, giảm 27,6%; thủy hải sản chế biến các loại đạt 13.288 tấn, tăng 16,1%; tinh bột sắn đạt 5.812 tấn, tăng 79,8%; bia đóng chai đạt 3.071 nghìn lít, tăng 94,8%; nước khoáng có ga đạt 1.041 nghìn lít, tăng 22,7%; áo quần các loại (trừ áo sơ mi người lớn) đạt 2.039 nghìn cái, giảm 23,9%; áo sơ mi đạt 6.019 nghìn cái, tăng 12,4%; dăm gỗ đạt 160.813 tấn, giảm 7,4%; ván ép từ gỗ đạt 22.703 m3, tăng 38,7%; cao su tổng hợp đạt 634 tấn, tăng 13,7%; kính cường lực đạt 1.377 tấn, giảm 2,5%; clinker thành phẩm đạt 1,1 triệu tấn, giảm 13,1%; xi măng đạt 751.774 tấn, giảm 4,0%; điện gió đạt 220,7 triệu kwh, giảm 19,3%; điện mặt trời đạt 59,9 triệu kwh, tăng 14,3%; điện thương phẩm đạt 585 triệu kwh, tăng 12,7%; nước máy thương phẩm đạt 7.352 nghìn m3, tăng 8,0%.

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước. UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công ngay từ những tháng đầu năm và xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm có ý nghĩa quan trọng tạo ra động lực cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh. Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Trong những tháng đầu năm 2024, nhiều công trình, dự án lớn tiếp tục được triển khai thực hiện như: Dự án Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch; Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đoạn qua Quảng Bình; dự án đường ven biển và cầu Nhật Lệ 3; Dự án Trung tâm Thể dục - Thể thao tỉnh Quảng Bình; Dự án Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh;… Một số công trình, dự án mới được khởi công trong năm như: Dự án Bệnh viện Đa khoa Bắc Quảng Bình; Dự án cải tạo đường sắt khu vực đèo Khe Nét;… Bên cạnh đó, các dự án khu nhà ở thương mại, khu đô thị trên địa bàn tỉnh cũng đang tiếp tục được các chủ đầu tư, đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2024.

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn: Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh trong quý II năm 2024 ước tính đạt 8.013,0 tỷ đồng, tăng 28,4% so với quý trước và tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh đạt 14.255,1 tỷ đồng, tăng 10,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước đạt 3.010,8 tỷ đồng, tăng 0,8%; khu vực ngoài nhà nước đạt 11.224,4 tỷ đồng, tăng 12,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 19,9 tỷ đồng, giảm 24,0% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý: Trong tháng 6 năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý ước tính đạt 362,0 tỷ đồng, tăng 3,6% so với tháng trước và giảm 10,0% so với cùng kỳ năm trước; Quý II năm 2024 đạt 1.063,6 tỷ đồng, giảm 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý đạt 2.097,0 tỷ đồng, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn NSNN cấp tỉnh đạt 1.445,7 tỷ đồng, tăng 0,5%; vốn NSNN cấp huyện đạt 388,5 tỷ đồng, giảm 11,9%; vốn NSNN cấp xã đạt 262,8 tỷ đồng, giảm 16,7% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 7. Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý

Hoạt động thương mại tháng 6/2024 tiếp tục đạt mức tăng trưởng khá; lượng cung hàng hóa trên thị trường dồi dào, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của Nhân dân. Tháng 6 là tháng bước vào mùa du lịch cao điểm, nhu cầu tham quan, vui chơi giải trí và đi lại của người dân tăng cao đã tác động tích cực đến doanh thu hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh. Bên cạch đó, nhiều doanh nghiệp có chính sách khuyến mãi, chương trình giảm giá các mặt hàng nhằm kích cầu tiêu dùng; không khí mua sắm, vui chơi tại các siêu thị, trung tâm thương mại trở nên sôi động, nhộn nhịp hơn.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 6/2024 ước đạt 4.330,5 tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ. Hầu hết các nhóm hàng hóa đều tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 1.611,5 tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 10,2% so với cùng kỳ; nhóm may mặc ước đạt 569,6 tỷ đồng, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 12,2% so với cùng kỳ; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 725,1 tỷ đồng, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng kỳ; nhóm ô tô các loại ước đạt 242,9 tỷ đồng, tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 9,0% so với cùng kỳ; nhóm xăng dầu các loại ước đạt 416,4 tỷ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 15,2% so với cùng kỳ,… Chỉ riêng nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục đạt 31,8 tỷ đồng, giảm 2,5% so với tháng trước (do tháng 6, học sinh đã nghĩ hè) và tăng 15,9% so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa ước tính quý II/2024 đạt 12.852,4 tỷ đồng, tăng 0,9% so quý trước và tăng 10,3% so với cùng kỳ, trong đó các nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ đó là: Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 4.804,3 tỷ đồng, tăng 10,8%; nhóm may mặc ước đạt 1.688,8 tỷ đồng, tăng 11,4%; nhóm xăng dầu các loại ước đạt 1.237,3 tỷ đồng, tăng 14,4% so với cùng kỳ.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 25.590,9 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ, trong đó các nhóm ngành đều tăng cao so với cùng kỳ. Chiếm tỷ trọng và tăng cao nhất là nhóm lương thực, thực phẩm đạt 9.715,1 tỷ đồng, tăng 12,5% so với cùng kỳ, đóng góp tăng cao nhất 4,7 điểm phần trăm trong tổng số tăng chung của tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Hình 8. Tổng mức bán lẻ hàng hóa

Sáu tháng đầu năm 2024, hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển nhờ sự đóng góp tích cực của ngành Du lịch, đó là thông qua việc tạo ra nhu cầu tiêu dùng ở địa phương. Khách du lịch thường muốn trải nghiệm văn hóa, ẩm thực và sản phẩm địa phương khi họ đến một địa điểm mới, điều này thúc đẩy nhu cầu mua sắm cho các sản phẩm địa phương như đồ thủ công, đặc sản và quà lưu niệm,... Bên cạnh đó các cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát, qua đó phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm ở các cơ sở kinh doanh trong việc thực hiện niêm yết giá, kiểm định, ghi nhãn mác; buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại, góp phần ổn định thị trường, đảm bảo an sinh xã hội.

b) Dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành

Tháng 6/2024, một chuỗi sự kiện du lịch, văn hóa, thể thao hấp dẫn du khách trong và ngoài nước sẽ diễn ra vào mùa cao điểm du lịch hè 2024 nhằm thu hút đông đảo người dân và du khách đến tham quan, trải nghiệm: Chương trình nghệ thuật đặc biệt: “Quảng Bình hành trình khát vọng - phát triển” chào mừng lễ kỷ niệm 420 năm hình thành tỉnh Quảng Bình (1604-2024), 75 năm ngày Quảng quật khởi (15/7/1949-15/7/2024), 35 năm ngày tái lập tỉnh (01/7/1989-01/7/2024); Hội thảo phát triển du lịch nông thôn, du lịch cộng đồng Quảng Bình; Tuổi trẻ Quảng Bình đồng hành với du lịch; Khai trương ra mắt các sản phẩm, dịch vụ du lịch mới tại các khu, điểm, sản phẩm du lịch, cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh và các nền tảng số,… Qua đó để tạo ấn tượng và nâng cao thương hiệu điểm đến du lịch Quảng Bình, bước đầu xây dựng sự kiện thường niên tiến tới tạo sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt.

Sáu tháng đầu năm 2024, hoạt động du lịch ghi nhận sự tăng trưởng mạnh. Nhiều hoạt động lễ hội được tổ chức với quy mô lớn và chất lượng dịch vụ tốt để phục vụ du khách và đã đạt được những tín hiệu đáng mừng khi thu hút lượng lớn khách du lịch đến tỉnh. Ngành Du lịch Quảng Bình cũng đã đẩy mạnh và làm tốt công tác quảng bá du lịch địa phương thông qua các nền tảng số với nội dung phong phú, chuyên biệt cho từng thị trường trọng điểm và trên các cơ quan thông tấn, báo chí, phương tiện truyền thông. Vì vậy doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 6 tháng đầu năm 2024 tăng cao so với cùng kỳ.

Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 6/2024 ước đạt 69,3 tỷ đồng, tăng 15,0% so với tháng trước và tăng 22,5% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 183,1 tỷ đồng, tăng 29,6% so với quý trước, tăng 19,8% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 324,3 tỷ đồng, tăng 16,9% so với cùng kỳ.

Số lượt khách lưu trú tháng 6/2024 ước đạt 210.636 lượt khách, tăng 16,1% so với tháng trước và tăng 25,5% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 555.516 lượt khách, tăng 32,3% so với quý trước, tăng 18,6% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 975.517 lượt khách, tăng 14,2% so với cùng kỳ.

Ngày khách tháng 6/2024 ước đạt 213.348 ngày khách, tăng 11,7% so với tháng trước và tăng 15,2% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 576.596 ngày khách, tăng 30,1% so với quý trước, tăng 13,8% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 1.019.856 ngày khách, tăng 11,3% so với cùng kỳ.

Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 6/2024 ước đạt 426,1 tỷ đồng, tăng 5,5% so với tháng trước và tăng 13,2% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 1.205,9 tỷ đồng, tăng 19,9% so với quý trước và tăng 13,1% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 2.211,9 tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ.

Hình 9. Dịch vụ lưu trú, ăn uống

Doanh thu hoạt động lữ hành tháng 6/2024 ước đạt 65,5 tỷ đồng, tăng 11,0% so với tháng trước và tăng 33,6% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 179,3 tỷ đồng, tăng 23,0% so với quý trước và tăng 36,0% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 325,1 tỷ đồng, tăng 38,1% so với cùng kỳ.

Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 6/2024 ước đạt 86.604 lượt khách, tăng 11,6% so với tháng trước và tăng 6,6% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 236.310 lượt khách, tăng 27,6% so với quý trước, tăng 8,8% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 421.559 lượt khách, tăng 9,3% so với cùng kỳ.

Số ngày khách du lịch lữ hành tháng 6/2024 ước đạt 97.272 ngày khách, tăng 12,0% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 264.744 ngày khách, tăng 29,0% so với quý trước, tăng 10,3% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 469.950 ngày khách, tăng 10,8% so với cùng kỳ.

Hình 10. Du lịch lữ hành 6 tháng đầu năm 2024.

c) Các ngành kinh doanh dịch vụ

Sáu tháng đầu năm 2024, ngành du lịch phát triển nhanh, theo đó các hoạt động như vui chơi và giải trí được du khách quan tâm sử dụng. Các khu vui chơi giải trí, dịch vụ spa, nhà hàng, quán bar,… thường trở thành điểm đến cho du khách muốn thưởng thức và nghỉ ngơi. Cùng với đó, hoạt động xây dựng đang có nhiều khởi sắc, kéo theo sự phát triển của các dịch vụ khác như: cho thuê máy móc, vệ sinh công trình, sử dụng lao động thời vụ,… do đó doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ 6 tháng đầu năm 2024 tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ.

Dự ước doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ tháng 6/2024 đạt 229,4 tỷ đồng, tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 11,4% so với cùng kỳ. Đa phần các nhóm dịch vụ đều tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản ước đạt 67,4 tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 10,6% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ ước đạt 43,9 tỷ đồng, tăng 3,4% so với tháng trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí ước đạt 34,3 tỷ đồng, tăng 3,9% so với tháng trước, tăng 22,5% so với cùng kỳ,… Riêng có 2 nhóm giảm so với tháng trước, cụ thể: nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo ước đạt 4,2 tỷ đồng, giảm 2,0% so với tháng trước (do tháng 6 kết thúc năm học) nhưng tăng 11,8% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ khác ước đạt 43,9 tỷ đồng, giảm 0,1% so với tháng trước và tăng 7,5% so với cùng kỳ.

Doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ quý II/2024 ước đạt 680,3 tỷ đồng, tăng 2,0% so với quý trước và tăng 9,8% so với cùng kỳ.

Sáu tháng đầu năm 2024, doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ đạt 1.347,0 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ. Trong đó, các nhóm dịch vụ đều tăng cao từ 7,9%-14,1% so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 8,3% đóng góp tăng 2,4 điểm phần trăm; nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 8,6% đóng góp tăng 1,6 điểm phần trăm; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 11,5% đóng góp tăng 1,6 điểm phần trăm; nhóm dịch vụ khác tăng 12,1% đóng góp tăng 2,5 điểm phần trăm trong tổng số tăng chung của nhóm các ngành kinh doanh dịch vụ.

Hoạt động vận tải tháng 6/2024 tiếp tục đạt mức tăng trưởng khá, tháng có nhiều sự kiện, lễ hội lớn của tỉnh đã thu hút đông đảo người dân và du khách đến tham quan, trải nghiệm nên nhu cầu đi lại của người dân tăng; bên cạnh đó, vận tải hàng hoá cũng duy trì ổn định đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hoá phục vụ tốt trong mùa du lịch, cũng như nhu cầu vận chuyển nguyên, vật liệu, thiết bị phục vụ cho các dự án, công trình làm cho doanh thu vận tải tăng cao so với cùng kỳ. Ước tính doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát tháng 6/2024 đạt 506,8 tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 14,5% so với cùng kỳ. Quý II/2024 ước đạt 1.505,7 tỷ đồng, tăng 3,8% so với quý trước và tăng 14,0% so với cùng kỳ năm trước.Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát đạt 2.957,0 tỷ đồng, tăng 12,4% so với cùng kỳ, trong đó: Vận tải hành khách đạt 511,0 tỷ đồng, tăng 15,8%; vận tải hàng hóa đạt 2.257,0 tỷ đồng, tăng 12,0%; dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát đạt 189,0 tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 11. Doanh thu hoạt động vận tải 6 tháng đầu năm 2024

Ước tính tháng 6/2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 3,4 triệu hành khách, tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 16,5% so với cùng kỳ; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 151,9 triệu hành khách.km, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2024, số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 10,0 triệu hành khách, tăng 2,1% so với quý trước và tăng 16,4% so với cùng kỳ; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 452,0 triệu hành khách.km, tăng 2,0% so với quý trước và tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 19,8 triệu hành khách, tăng 15,8%; số lượt hành khách luân chuyển đạt 895,3 triệu hành khách.km, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính tháng 6/2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 3,3 triệu tấn, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 14,5% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 224,6 triệu tấn.km, tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ. Quý II/2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 9,7 triệu tấn, tăng 4,5% so với quý trước và tăng 13,8% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 664,9 triệu tấn.km, tăng 4,0% so với quý trước và tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 18,9 triệu tấn, tăng 11,9% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 1.304,3 triệu tấn.km, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước.

Hoạt động khám chữa bệnh trong 6 tháng năm 2024 hầu hết các chỉ tiêu chuyên môn về khám chữa bệnh được thực hiện theo đúng tiến độ. Ngành Y tế tiếp tục duy trì và phát huy tốt hoạt động khám chữa bệnh tại các tuyến, đặc biệt là bệnh viện tuyến huyện, thị xã, thành phố trực thuộc Sở Y tế; tổ chức phục vụ kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh cho Nhân dân. Dự ước 6 tháng đầu năm 2024, các cơ sở y tế nhà nước đã khám chữa bệnh cho 563.034 lượt người; trong đó: tuyến tỉnh 58.117 lượt người, tuyến huyện 244.818 lượt người, tuyến xã 260.099 lượt người.

Tình hình các bệnh truyền nhiễm 6 tháng năm 2024 đều được kiểm soát tốt. Tính từ đầu năm đến ngày 22/5/2024, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 171 ca sốt xuất huyết. Ngày 16/5/2024, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh ban hành Công văn số 879/UBND-NCVX về việc chủ động triển khai các hoạt động phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn tỉnh. UBND tỉnh yêu cầu các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về các biện pháp phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm.

Công tác an toàn thực phẩm 6 tháng năm 2024 được chú trọng mạnh mẽ, các cơ quan quản lý nhà nước nâng cao vai trò, trách nhiệm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Tính đến ngày 16/5/2024, trên địa bàn tỉnh xảy ra 1 vụ ngộ độc và 117 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ, các bệnh nhân đã được nhập viện điều trị kịp thời.

Năm học 2023 - 2024, toàn ngành Giáo dục tiếp tục thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 với chủ đề năm học là: “Đoàn kết, kỷ cương, sáng tạo, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo”; ngành Giáo dục Quảng Bình tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết Đại hội XVII của Đảng bộ tỉnh, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong 6 tháng đầu năm ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã đạt được một số kết quả quan trọng như sau:

Về kết quả thi học sinh giỏi cấp Quốc gia: Kỳ thi chọn học sinh giỏi Quốc gia trung học phổ thông năm học 2023 - 2024, Quảng Bình có 67 học sinh dự thi. Kết quả có 47 học sinh đoạt giải, đạt tỉ lệ 70,15% trên tổng số học sinh dự thi (trong đó: 7 giải Nhì, 17 giải Ba và 23 giải Khuyến khích).

Về kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh lớp 9, 12 cấp tỉnh năm học 2023 - 2024: Kết quả thi chọn học sinh giỏi lớp 9 có 419 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ 49,01%, trong đó: 21 giải Nhất, 68 giải Nhì, 137 giải Ba, 193 giải Khuyến khích; Kết quả thi chọn học sinh giỏi lớp 12, có 489 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ 49%, trong đó: 18 giải Nhất, 84 giải Nhì, 172 giải Ba, 215 giải Khuyến khích.

Thông qua kỳ thi phát hiện những học sinh xuất sắc nhất để tiếp tục bồi dưỡng tham dự kỳ thi học sinh giỏi cấp Quốc gia trong thời gian tới. Thành tích mà các học sinh đạt được, khẳng định quyết tâm lớn của nhà trường trong việc nâng cao chất lượng dạy học, sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ thầy cô giáo và học sinh, qua đó làm dày thêm sổ vàng truyền thống học sinh giỏi của các trường, của ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Bình, hướng đến mục tiêu đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương đất nước.

Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2024 - 2025: Toàn tỉnh có 13.747 thí sinh đăng ký dự thi (tăng 895 em so với kỳ thi năm trước); trong đó, thi tuyển sinh vào lớp 10 Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp có 780 thí sinh đăng ký dự thi (giảm 26 em so với kỳ thi năm trước), tuyển sinh vào Trường THPT Dân tộc Nội trú có 258 thí sinh đăng ký dự thi (tăng 50 em so với kỳ thi năm trước). Có 13.663 thí sinh đang học lớp 9 và 86 thí sinh tự do (77 thí sinh tự do trong tỉnh, 9 thí sinh tự do ngoại tỉnh), 196 thí sinh thuộc đối tượng tuyển thẳng.

Về phương thức tuyển sinh vào lớp 10 năm nay giữ ổn định như năm trước (kết hợp thi tuyển với xét tuyển đối với các trường THPT không chuyên và Trường THPT Dân tộc Nội trú; thi tuyển đối với Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp; xét tuyển đối với Trung tâm GDTX tỉnh, các trung tâm GDNN-GDTX). Điểm mới trong công tác tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm nay đó là: Tổ chức thi 02 môn Toán, Ngữ văn, thời gian làm bài thi mỗi môn thi là 120 phút; Tuyển sinh vào Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp, không áp dụng miễn thi môn Tiếng Anh (chung) khi thí sinh có các chứng chỉ, không tổ chức tuyển sinh lớp không chuyên, tăng 1 lớp chuyên Văn. Theo kế hoạch kỳ thi diễn ra vào ngày 04/6/2024. Riêng lịch thi vào lớp 10 THPT chuyên Võ Nguyên Giáp tổ chức thi thêm môn chuyên và môn Tiếng Anh vào ngày 05/6/2024.

Kỳ thi THPT Quốc gia năm 2024: Toàn tỉnh có 11.246 thí sinh đăng ký dự thi (tăng 78 thí sinh so với năm 2023), trong đó: 10.856 thí sinh đang học lớp 12 chiếm tỉ lệ 96,54% và 390 thí sinh thí sinh tự do (62 thí sinh tự do chưa tốt nghiệp và 328 thí sinh tự do đã tốt nghiệp) chiếm tỉ lệ 3,46%; 8.886 thí sinh thi để xét tốt nghiệp và đăng ký xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng chiếm tỉ lệ 79,01%; 2.032 thí sinh thi chỉ để xét tốt nghiệp chiếm tỉ lệ 18,07%; 328 thí sinh thi chỉ để đăng ký xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng chiếm tỉ lệ 2,92%.

Toàn tỉnh tổ chức một Hội đồng thi dành cho tất cả các thí sinh đăng ký dự thi tại tỉnh Quảng Bình do Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì, dự kiến tổ chức thi tại 30 điểm. Lịch thi sẽ được tổ chức từ ngày 27 - 28/6/2024 (ngày thi dự phòng là 29/6/2024).

Trong năm học 2024, chỉ tiêu tuyển sinh Trường Đại học Quảng Bình 790 chỉ tiêu hệ đại học, cao đẳng chính quy, trong đó: hệ đại học 760 chỉ tiêu; cao đẳng sư phạm 30 chỉ tiêu. Hiện tại, Trường Đại học Quảng Bình tiếp tục thông báo tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm học 2024.

3. Hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao

Hoạt động văn hoá, thể thao 6 tháng đầu năm 2024 diễn ra sôi nổi với các hoạt động chào đón năm mới 2024, tết Nguyên đán Giáp Thìn, các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước như Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch, 49 năm ngày Giải phóng Miềm nam thống nhất đất nước 30/4 và Quốc tế Lao động 1/5. Trong đó, nổi bật: chương trình “Phong Nha Countdown Party 2024”, Tuần lễ Văn hoá - Thể thao - Du lịch và Hội Rằm tháng 3 âm lịch ở Minh Hoá; Tuần Văn hóa - Du lịch Đồng Hới năm 2024. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao đã tạo không khí tươi mới, phấn khởi trên địa bàn toàn tỉnh trong mỗi dịp kỷ niệm.

Ngày 02/6/2024, tại Quảng trường Hồ Chí Minh đã diễn ra Lễ kỷ niệm 420 năm hình thành tỉnh Quảng Bình (1604 - 2024), 75 năm ngày Quảng Bình quật khởi (15/7/1949 - 15/7/2024) và 35 năm ngày tái lập tỉnh (01/7/1989 - 01/7/2024). Lễ kỷ niệm được tổ chức trang trọng với chương trình nghệ thuật đặc sắc. Chương trình đã thể hiện được niềm tự hào, tri ân sâu sắc đối với các bậc tiền nhân và thế hệ cha ông đã có công xây dựng và gìn giữ quê hương, đất nước; đồng thời khẳng định quyết tâm, bản lĩnh của Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình trong giai đoạn phát triển mới.

Thể thao phong trào sôi nổi với các hoạt động thể thao như: giải cầu lông, bóng đá, bóng chuyền; các trò chơi dân gian: kéo co, đánh đu, chơi Hội Bài chòi,...tạo không khí vui tươi cho người dân trong dịp Tết. Giải đua thuyền truyền thống vô địch quốc gia năm 2024 trên sông Nhật Lệ, giải Marathon khám phá Quảng Bình “Quảng Bình Discovery Marathon” lần thứ IV - 2024 là một trong những giải đấu phong trào đáng chú ý trong 6 tháng đầu năm 2024.

Tính đến hết ngày 19/5/2024, các đội tuyển thể thao thành tích cao Quảng Bình đã thi đấu đạt được 78 huy chương các loại (16HCV; 23HCB; 39HCĐ); trong đó có 5 huy chương quốc tế (3HCV; 1HCB; 1HCĐ)

4. Tình hình trật tự an toàn xã hội

Tình hình trật tự an toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2024 được chú trọng đẩy mạnh. Ngày 15/5/2024, UBND tỉnh ban hành Công văn số 869/UBND-KT về việc tăng cường công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh. UBND yêu cầu các đơn vị, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phục vụ nhu cầu đi lại của Nhân dân. Lũy kế 5 tháng năm 2024, toàn tỉnh đã xảy ra 90 vụ tai nạn giao thông, tăng 54 vụ so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đường bộ 90 vụ tăng 55 vụ, đường sắt không xảy ra giảm 1 vụ, đường thuỷ không xảy ra bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 48 người, tăng 30 người so với cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 55 người, tăng 21 người so với cùng kỳ.

Theo báo cáo của Công an tỉnh, tính chung 5 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh đã xảy ra 9 vụ cháy với giá trị thiệt hại tạm ước tính 3.004,88 triệu đồng.

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xãy ra 3 vụ lốc xoáy, làm 1 người chết; 10 ngư dân mất tích; 5 nhà bị hư hại; diện tích lúa bị thiệt hại 10 ha, ước tính thiệt hại 54,5 triệu đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ.

6. Tình hình nổi bật khác về xã hội

Từ đầu năm đến nay, dựa trên nhu cầu tìm kiếm việc làm của lao động trong tỉnh, Trung tâm Dịch vụ việc làm (DVVL) Quảng Bình đã liên tục tổ chức các phiên giao dịch nhằm hỗ trợ cho các đơn vị tuyển dụng và lao động cần việc làm có được công việc ổn định, giảm tối đa nạn thất nghiệp, dôi thừa lao động, ảnh hưởng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững toàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025.

Trong bối cảnh thị trường lao động còn nhiều khó khăn, song toàn tỉnh vẫn tích cực giải quyết việc làm cho người lao động. Tính từ đầu năm đến nay, Quảng Bình đã giới thiệu việc làm, cung ứng và tuyển lao động với hơn 8.000 lượt người. Để hỗ trợ người lao động vững vàng phát triển kinh tế từ nghề nghiệp ở nước ngoài, cũng như nâng cao chất lượng nguồn lao động địa phương trên thị trường các nước như Nhật Bản, Đài Loan, đặc biệt là Hàn Quốc, Trung tâm DVVL đã tập trung đào tạo 3 yếu tố quan trọng là tay nghề, vốn ngoại ngữ và ý thức tổ chức kỷ luật. Cùng với việc đào tạo ngoại ngữ, Trung tâm đã tập trung trang bị các kỹ năng nghề cơ bản, đồng thời giáo dục định hướng cho người lao động, chủ yếu là các kiến thức về văn hóa ứng xử, hiểu biết pháp luật,… của nước sở tại.

Với mục tiêu phát triển giáo dục nghề nghiệp nhằm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo, thời gian qua, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh luôn chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyển sinh, đào tạo nghề. Một số mô hình hỗ trợ đào tạo nghề gắn với doanh nghiệp, làng nghề, hợp tác xã theo hình thức liên kết giữa đào tạo nghề với giải quyết việc làm, đào tạo nghề với cung cấp nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm đã mang lại hiệu quả, góp phần giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Phấn đấu tuyển sinh, đào tạo nghề cho hơn 17.000 người. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tích cực chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát huy ưu thế trong công tác tư vấn, hướng nghiệp phân luồng, tổ chức tư vấn, tuyển sinh trực tuyến và trực tiếp, phấn đấu trong năm 2024 tuyển sinh, đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng cho 17.000 người, trong đó cao đẳng 250 người, trung cấp 1.750 người, với chất lượng đào tạo đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 40%; đào tạo sơ cấp và dưới 3 tháng cho 15.000 người, trong đó hỗ trợ đào tạo nghề trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng cho 5.000 lao động.

Ước tính đến 30/6/2024, có 11.726 lao động được giải quyết việc làm, đạt 60,1% kế hoạch năm, trong đó có 3.611 lao động được tuyển chọn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng, đạt 72% kế hoạch năm. Vay vốn giải quyết việc làm đạt 165.388 triệu đồng với 2.979 lượt lao động vay vốn, hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho trên 3.000 lao động.

Từ đầu năm đến nay, trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh đã tổ chức 22 phiên giao dịch việc làm; 14.039 lượt người được tư vấn về các vấn đề liên quan đến chế độ chính sách việc làm, học nghề; giới thiệu việc làm, cung ứng và tuyển lao động: 8.607 lượt người; giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng cho 1.384 người; 62 người được hỗ trợ học nghề.

Những năm trở lại đây, tỉnh Quảng Bình luôn chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là định hướng những ngành nghề phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương, đào tạo nghề gắn với sản xuất nông nghiệp. Nhờ vậy, nhiều hộ gia đình, nhất là các hộ nghèo đã chuyển đổi nghề nghiệp, có việc làm ổn định, vươn lên thoát nghèo và làm giàu.

Công tác an sinh, phúc lợi xã hội được đảm bảo, trong đó các đối tượng người cao tuổi, người nghèo, bảo trợ xã hội, người có hoàn cảnh khó khăn luôn được lãnh đạo Tỉnh quan tâm và ưu tiên hàng đầu.

Nhằm truyên tuyền nâng cao nhận thức của người nghèo về các nội dung của Chương trình mục tiêu Quốc gia (MTQG) giảm nghèo giai đoạn 2021 - 2025, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu thuộc Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh. Trong 2 ngày 09/5 và 14/5/2024, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức Hội nghị truyền thông, tuyên truyền Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững năm 2024 cho gần 170 đại biểu là cán bộ phụ trách công tác giảm nghèo các huyện, xã, trưởng thôn/bản, đại diện thành viên của gia đình hộ nghèo, hộ cận nghèo của 2 huyện Minh Hóa và Tuyên Hóa.

Đến thời điểm hiện tại các mục tiêu, nhiệm vụ thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững so với kế hoạch đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng lao động tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề dịch vụ, tạo thêm nhiều việc làm mới nhằm giải quyết việc làm cho nhiều lao động, góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân; các chế độ chính sách liên quan đến hộ nghèo và chính sách an sinh xã hội thực hiện tốt hơn, nhiều mô hình phát triển sản xuất tại cộng đồng,... được các địa phương quan tâm, hướng dẫn, định hướng cho người nghèo tham gia nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Đặc biệt, đã có sự chuyển biến về nhận thức và hành động của một bộ phận người nghèo, đã xuất hiện một số điển hình làm đơn tự nguyện xin thoát nghèo. Các chương trình, dự án hỗ trợ cho hộ nghèo, người nghèo triển khai thực hiện có hiệu quả, các chính sách an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ và kịp thời đã giúp cho người nghèo giảm bớt khó khăn, từ đó tạo điều kiện cải thiện cuộc sống người dân. Một số nội dung của Chương trình đã thực sự đi vào cuộc sống, huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, sự tham gia của các tầng lớp nhân dân và của chính người nghèo. Đời sống của người nghèo, cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển được cải thiện rõ rệt.

Trong quý II/2024, hơn 50 thầy thuốc của bệnh viện tuyến Trung ương tại Hà Nội, Bệnh viện hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh cùng các đơn vị y tế địa phương đã khám bệnh tại 2 xã miền núi Lâm Thuỷ (Lệ Thuỷ), Trường Sơn (Quảng Ninh) tham gia chương trình “Khám bệnh vì một Việt Nam khoẻ mạnh hơn” để thăm khám, chăm sóc sức khoẻ, tri ân gia đình có công với cách mạng và người dân có hoàn cảnh khó khăn. Cấp phát thuốc miễn phí, truyền thông giáo dục sức khoẻ cho gần 1.500 người dân là gia đình chính sách, người có công với cách mạng; các hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh có hoàn cảnh khó khăn; người cao tuổi có bệnh lý nền, người có hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn,…Cũng trong chương trình, Ban tổ chức đã trao tặng 20 phần quà cho các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, người khuyết tật; hỗ trợ 10 ca mổ tim bẩm sinh từ 13 tuổi (trị giá 50 triệu đồng/ca); tặng nước rửa tay và những phần quà cho các trường học trên địa bàn.

Cùng với việc thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách, những năm qua, các cấp, ngành, địa phương trên toàn tỉnh còn tích cực huy động nguồn lực xã hội để chung tay chăm lo, hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; tăng cường các giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại, tai nạn thương tích cho trẻ. Qua đó, tạo mọi điều kiện, môi trường thuận lợi để trẻ em được học tập, vui chơi, bảo đảm các quyền cơ bản để phát triển toàn diện.

Khái quát lại, Quảng Bình triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2024 bên cạnh những khó khăn, thách thức vẫn có nhiều thuận lợi. Ngay từ đầu năm, Tỉnh ủy, UBND đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp, điều hành của Chính phủ về về phát triển KT-XH, khắc phục khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ, vận hội mới, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để quyết tâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; thực hiện hiệu quả công tác an sinh xã hội bảo đảm toàn diện, đa tầng, bền vững, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng GRDP cả năm 2024 đạt 7,0% - 7,5%.

Sáu tháng đầu năm 2024 tỉnh Quảng Bình đã đạt những kết quả đáng ghi nhận: Kinh tế ổn định và tăng trưởng khá, GRDP 6 tháng đầu năm ước tính tăng 6,50%; sản xuất vụ Đông Xuân đạt kết quả tích cực; khai thác thủy sản phát triển ổn định; sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá; du lịch tăng trưởng nhanh; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống văn hóa và tinh thần của người dân tiếp tục được nâng cao; tình hình chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội được bảo đảm;...

Trong thời gian tới, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các ngành, các cấp, các địa phương cần triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:

- Tích cực triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp, điều hành của Chính phủ về ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát và đẩy mạnh việc thực hiện các khâu đột phá giai đoạn 2021 - 2025.

- Kế thừa và phát huy những kết quả trong thời gian qua; không chủ quan, tự mãn với thành tích đã đạt được; quán triệt, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực một cách hiệu quả, trước hết là trong hệ thống hành chính nhà nước; kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc.

- Tiếp tục thực hiện thực chất, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, thúc đẩy kinh tế xanh, bền vững và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế. Thực hiện thực chất, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, thúc đẩy kinh tế xanh, bền vững và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế. Tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai.

- Xây dựng cơ quan hành chính các cấp đoàn kết, thống nhất cao, liêm chính, dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, bám sát thực tiễn, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đi đôi với phân bổ nguồn lực, tăng cường giám sát, kiểm tra. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thực thi trách nhiệm giải trình, bảo đảm công khai, minh bạch. Nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự lực, tự cường, đổi mới, sáng tạo; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết liệt, hiệu quả trong hành động.

- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm thượng tôn pháp luật. Nâng cao chất lượng, hiệu quả một số hoạt động hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và thi hành án; chú trọng công tác trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Thực hiện quyết liệt, hiệu quả hơn nữa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực theo các Nghị quyết, quy định của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh về phát triển KT-XH 10 năm 2021 - 2030, 5 năm 2021 - 2025, các khâu đột phá giai đoạn 2021 - 2025 của tỉnh về: (1) Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; (2) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH theo hướng đồng bộ, từng bước hiện đại; (3) Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh; (3) Phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển KTXH. Chú trọng kiểm soát lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển nền kinh tế số, xã hội số; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực phát triển KT-XH. Tích cực hơn nữa trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh; chủ động xử lý hiệu quả những vấn đề tồn đọng kéo dài.

- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là các công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, có tính liên vùng và hạ tầng đô thị. Tiếp tục phát triển hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng thương mại điện tử, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn,...

- Quán triệt chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát huy giá trị văn hóa và con người Quảng Bình trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển KT-XH. Khai thác tối ưu và hợp lý các di sản văn hóa, thiên nhiên, đặc biệt là Di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Quan tâm hơn nữa đến công tác an sinh xã hội và đời sống Nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đẩy mạnh việc thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; bảo đảm mọi người dân đều có cơ hội tham gia và thụ hưởng thành quả phát triển KT-XH. Tăng cường phòng chống thiên tai, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; ổn định chính trị - xã hội và an toàn, an ninh cho Nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội để phát triển KT-XH.

Trên cơ sở các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ chủ yếu nêu trên, các sở, ngành và địa phương cụ thể hóa các cơ chế, giải pháp, chính sách bảo đảm sự thống nhất về các nguyên tắc, mục tiêu chung, đồng thời phải phù hợp với điều kiện thực tiễn và trình độ phát triển của từng ngành và từng địa phương để thực hiện thành công kế hoạch phát triển KT-XH năm 2024./.

[1] Nguồn: Công văn số 1028/TCTK-TKQG ngày 29/5/2024 của Tổng cục Thống kê về việc thông báo số liệu GRDP ước tính quý II, 6 tháng đầu năm 2024.

[2] Nguồn: Báo cáo số 272/BC-CNTY ngày 06/6/2024 của Chi cục Chăn nuôi và Thú y

[3] Nguồn: Báo cáo số 588/BC-CCKL ngày 30/5/2024 của Chi cục Kiểm lâm

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý I các năm 2020-2023[1]. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,98%, đóng góp 6,09% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,28%, đóng góp 41,68%; khu vực dịch vụ tăng 6,12%[2], đóng góp 52,23%.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu, nuôi trồng thủy sản đạt tăng trưởng tích cực. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp quý I/2024 tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,26 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 4,08% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,46%, đóng góp 0,08 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất công nghiệp khởi sắc và tiếp tục đà tăng trưởng từ cuối năm 2023. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2024 tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 0,73%), đóng góp 2,02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,98%[3], đóng góp 1,73 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,84% (sản lượng khai thác than giảm 0,3% và dầu mỏ thô khai thác giảm 3,2%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 6,83%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 1,87% của quý I/2023, đóng góp 0,4 điểm phần trăm.

Trong khu vực dịch vụ, các hoạt động thương mại diễn ra sôi động, du lịch phục hồi mạnh mẽ nhờ hiệu quả của chính sách thị thực thuận lợi và chương trình kích cầu du lịch, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chủ lực tăng cao. Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế quý I năm nay như sau: Ngành vận tải kho bãi tăng 10,58% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 8,34%, đóng góp 0,24 điểm phần trăm; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 6,94%, đóng góp 0,76 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 5,2%, đóng góp 0,32 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 4,14%, đóng góp 0,28 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế quý I/2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,77%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,73%; khu vực dịch vụ chiếm 43,48%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,02%[4].

Về sử dụng GDP quý I/2024, tiêu dùng cuối cùng tăng 4,93% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 56,77% vào tốc độ tăng chung; tích lũy tài sản tăng 4,69%, đóng góp 24,07%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 18%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 17,08%, chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 19,16%.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

– Lúa đông xuân: Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo cấy được 2.926,1 nghìn ha lúa đông xuân, giảm 1,3 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2023. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.478,6 nghìn ha, tăng 8,9 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2023 và đã thu hoạch 868,8 nghìn ha, chiếm 58,8% diện tích gieo cấy, bằng 106,1% cùng kỳ năm trước; năng suất ước đạt xấp xỉ vụ đông xuân năm trước; sản lượng ước đạt 10,7 triệu tấn, tăng 65 nghìn tấn.

– Lúa mùa: Đến giữa tháng Ba, vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo trồng lúa mùa đạt 183,1 nghìn ha, tăng 5,2 nghìn ha so với vụ mùa năm trước; năng suất đạt cao với 53,7 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha; sản lượng đạt 974,4 nghìn tấn, tăng 60,3 nghìn tấn.

– Cây hàng năm: Tính đến giữa tháng Ba, tiến độ gieo trồng một số cây rau màu vụ đông xuân như rau đậu, ngô, khoai lang tăng so với cùng kỳ năm trước; diện tích lạc, đậu tương giảm chủ yếu do hiệu quả kinh tế không cao.

– Cây lâu năm: Sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm trước do thời tiết thuận lợi, giá bán sản phẩm ổn định.

– Chăn nuôi: Chăn nuôi trâu, bò có xu hướng giảm; chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt. Tổng số lợn của cả nước ước tính đến thời điểm cuối tháng 3/2024 tăng 3,3% so với cùng thời điểm năm 2023; tổng số gia cầm tăng 2,1%; tổng số bò giảm 0,1%; tổng số trâu giảm 2,5%.

Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tháng 3/2024 ước đạt 19,2 nghìn ha, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị thiệt hại là 163,7 ha, tăng 7,8%, trong đó: Rừng bị chặt, phá là 94,3 ha, tăng 6,5%; diện tích rừng bị cháy là 69,4 ha, tăng 9,5%. Tính chung quý I/2024, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 37,3 nghìn ha, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước do thời tiết mưa nhiều nên ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng ở một số địa phương; diện tích rừng bị thiệt hại là 252,3 ha, tăng 0,3%, trong đó: Diện tích rừng bị chặt, phá là 182,2 ha, tăng 1,1%; diện tích rừng bị cháy là 70,1 ha, giảm 1,9%.

Sản lượng thủy sản tháng 3/2024 ước đạt 725,4 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 400,3 nghìn tấn, tăng 3,9%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 325,1 nghìn tấn, tăng 0,7%. Tính chung quý I/2024, sản lượng thủy sản ước đạt 1.941,5 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.440,8 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 193 nghìn tấn, tăng 3,9%; thủy sản khác đạt 307,7 nghìn tấn, tăng 2%.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2024 ước tính tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,98%, đóng góp 1,73 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,84%, làm giảm 0,20 điểm phần trăm.

– Chỉ số sản xuất công nghiệp quý I/2024 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 54 địa phương và giảm ở 9 địa phương trên cả nước.

– Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2024 tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,9%).

– Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2024 tăng 9,8% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 14,1% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 19,8%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2024 là 68,7% (bình quân quý I/2023 là 81,1%).

– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/3/2024 tăng 1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 1,1% so với cùng thời điểm năm trước.

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[5]

– Trong tháng Ba, cả nước có 14,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 64,3% so với tháng trước và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước; hơn 3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 43,4% và giảm 52%; có 4.139 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 19,6% và giảm 0,2%; 4.980 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 131,3% và tăng 44,3%; có 1.412 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 6,2% so với tháng 02/2024 và tương đương cùng kỳ năm trước.

– Tính chung quý I/2024, cả nước có 59,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 20 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 73,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm trước; Bình quân một tháng có gần 24,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Như vậy, so sánh giữa số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động với số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, trong quý I/2024, tổng số doanh nghiệp nước ta giảm 14,1 nghìn doanh nghiệp, bình quân một tháng giảm 4,7 nghìn doanh nghiệp.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2024, số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý IV/2023 thấp, chỉ có 22,1% nhưng dự kiến quý II/2024, có 45,4% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I/2024.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 3/2024 ước đạt 509,3 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.537,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2023 tăng 13,9%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,1% (quý I/2023 tăng 10,1%).

Vận tải hành khách tháng 3/2024 ước đạt 398,1 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 3,8% so với tháng trước và luân chuyển 21,7 tỷ lượt khách.km, giảm 6,9%. Tính chung quý I/2024, vận tải hành khách ước đạt 1.199,6 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 66,6 tỷ lượt khách.km, tăng 10,7%. Vận tải hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 208,1 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 3,1% so với tháng trước và luân chuyển 41,4 tỷ tấn.km, tăng 0,8%. Tính chung quý I/2024, vận tải hàng hóa ước đạt 620,1 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 129,2 tỷ tấn.km, tăng 11,2%.

Hoạt động viễn thông quý I/2024 nhìn chung ổn định với doanh thu theo giá hiện hành ước đạt 89,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 3,1%).

Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 3/2024 đạt gần 1,6 triệu lượt người, tăng 4,4% so với tháng trước và tăng 78,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, khách quốc tế đến nước ta ước đạt hơn 4,6 triệu lượt người, tăng 72% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19.

Số lượt người Việt Nam xuất cảnh trong tháng 3/2024 là 537,4 nghìn lượt người, tăng 42,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, số lượt người Việt Nam xuất cảnh đạt 1,2 triệu lượt người, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước.

6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán

– Tính đến thời điểm 25/3/2023, huy động vốn của các tổ chức tín dụng giảm 0,76% so với cuối năm 2023; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 0,26%.

– Tổng doanh thu phí bảo hiểm quý I/2024 ước đạt 53.295 tỷ đồng, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2023.

– Về thị trường chứng khoán, chỉ số VN-Index có xu hướng tăng mạnh so với cuối năm 2023. Tính chung quý I/2024, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 22.529 tỷ đồng/phiên, tăng 28,2% so với bình quân năm 2023; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 9.698 tỷ đồng/phiên, tăng 48,8%.

– Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2024 theo giá hiện hành ước đạt 613,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước đã phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh trong nước có xu hướng phục hồi ở nhiều ngành, lĩnh vực.

– Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2024 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 6,17 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước.

– Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ba tháng đầu năm 2024 ước đạt 4,63 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước.

– Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong ba tháng đầu năm 2024 có 22 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 28,7 triệu USD, giảm 74,6% so với cùng kỳ năm trước; có 2 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 220 nghìn USD, giảm 96,5%. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 28,9 triệu USD, giảm 75,8% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 3/2024 ước đạt 141,8 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước quý I/2024 đạt 539,5 nghìn tỷ đồng, bằng 31,7% dự toán năm và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 3/2024 ước đạt 140,3 nghìn tỷ đồng; lũy kế quý I/2024 ước đạt 393,5 nghìn tỷ đồng, bằng 18,6% dự toán năm và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước.

9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

Trong tháng Ba, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa[7] ước đạt 65,09 tỷ USD, tăng 35,6% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 17%; nhập khẩu tăng 13,9% . Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 8,08 tỷ USD.

– Xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 34,01 tỷ USD, tăng 37,8% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 25,21 tỷ USD, tăng 26,2%, chiếm 27,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 67,85 tỷ USD, tăng 13,9%, chiếm 72,9%.

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quý I/2024, nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 82,02 tỷ USD, chiếm 88,1%.

– Nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 31,08 tỷ USD, tăng 33,4% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 29,7 tỷ USD, tăng 14,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 55,28 tỷ USD, tăng 13,6%.

Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu quý I/2024, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước đạt 79,9 tỷ USD, chiếm 94%.

– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I/2024, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 26,2 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 29,4 tỷ USD.

– Cán cân thương mại hàng hóa tháng Ba ước tính xuất siêu 2,93 tỷ USD. Tính chung quý I/2024, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 8,08 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 4,93 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 4,49 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 12,57 tỷ USD.

Trong quý I/2024, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 5,67 tỷ USD, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ quý I/2024 ước đạt 8 tỷ USD (trong đó đã tính trong phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm của hàng hóa nhập khẩu là 2,69 tỷ USD), tăng 26,8% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại dịch vụ quý I/2024 nhập siêu 2,33 tỷ USD.

10. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỏ số giá đô la Mỹ

– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2024 giảm 0,23% so với tháng trước, so với tháng 12/2023 tăng 1,12% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,97%. Tính chung quý I/2024, CPI tăng 3,77% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,81%.

– Chỉ số giá vàng tháng 3/2024 tăng 4,59% so với tháng trước; tăng 9,41% so với tháng 12/2023; tăng 22,71% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I/2024, chỉ số giá vàng tăng 18,23%.

– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2024 tăng 0,88% so với tháng trước; tăng 1,81% so với tháng 12/2023; tăng 4,32% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I/2024 tăng 3,97%.

Tình hình lao động, việc làm quý I/2024 đã quay trở lại theo xu hướng phát triển bình thường như thời kỳ trước dịch Covid-19. Tình hình đời sống dân cư trong quý I năm nay được cải thiện hơn. Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I/2024 ước tính là 52,4 triệu người, giảm 137,4 nghìn người so với quý trước và tăng 175,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý I/2024 là 27,8%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Lao động có việc làm quý I/2024 ước tính là 51,3 triệu người, giảm 127,0 nghìn người so với quý trước và tăng 174,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý I/2024 là 2,03% (khu vực thành thị là 1,20%, khu vực nông thôn là 2,58%); tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý I/2024 là 2,24% (khu vực thành thị là 2,64%; khu vực nông thôn là 1,99%); tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý I/2024 là 7,99%.

Thu nhập bình quân của lao động quý I/2024 là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 301 nghìn đồng so với quý IV/2023 và tăng 549 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2023.

Tình hình đời sống dân cư trong quý I năm nay được cải thiện hơn. Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư 2024, thu nhập bình quân đầu người quý I/2024 ước đạt 5,2 triệu đồng/tháng, tăng khoảng 8% so với quý trước và tăng 10% so với cùng kỳ năm 2023.

Theo báo cáo từ địa phương, tính đến ngày 19/3/2024, số tiền hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là 8,1 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là hơn 2,4 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là 9,2 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ đột xuất, bất thường phát sinh tại địa phương là gần 26,8 tỷ đồng.

Theo thông tin từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, để người dân không bị thiếu đói, tính từ đầu năm đến nay, tổng số gạo Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã hỗ trợ cho người dân hơn 17,7 nghìn tấn gạo, trong đó: Hỗ trợ 10,4 nghìn tấn gạo cứu đói nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn cho 103,7 nghìn hộ với 693,4 nghìn nhân khẩu; Chính phủ hỗ trợ hơn 2,3 nghìn tấn gạo cứu đói giáp hạt năm 2024 cho hơn 33 nghìn hộ với 155,7 nghìn nhân khẩu./.

[1] Tốc độ tăng GDP quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2023 lần lượt là: 3,21%; 4,85%; 5,12%; 3,41%.

[2] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2023 lần lượt là: 3,03%; 4,51%; 4,38%; 6,86%.

[3] Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2023 giảm 0,45% so với cùng kỳ năm trước.

[4] Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2023 là 11,74%; 36,02%; 43,07%; 9,17%.

[5] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 24/3/2024.

[6] Kim ngạch xuất khẩu tính theo giá F.O.B và kim ngạch nhập khẩu tính theo giá C.I.F (bao gồm chi phí vận tải, bảo hiểm của hàng nhập khẩu). Khi tính cán cân thương mại của nền kinh tế thì kim ngạch xuất, nhập khẩu được tính theo giá F.O.B.

[7] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 3/2024 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 27/3/2024. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 3/2024 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 24/3/2024 do Tổng cục Hải quan cung cấp.

Năm 2022 là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và kế hoạch 5 năm 2021-2025; là năm mà Hà Tĩnh thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức. Dịch COVID-19 bùng phát mạnh sau Tết Nguyên đán; tác động xung đột dựa Nga - Ukraine làm giá xăng, dầu, nguyên vật liệu biến động thiếu ổn định; sản xuất ngành công nghiệp bị ảnh hưởng do cung thị trường thép tiêu thụ chậm đã kéo theo sự sụt giảm về sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ lực; lãi suất ngân hàng tăng cao trong những tháng cuối năm; trong sản xuất nông nghiệp chịu tác động bởi dịch bệnh, thời tiết diễn biến khó lường... đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.

Mặc dù nền kinh tế của tỉnh nhà gặp khó khăn, song với sự tập trung cao của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng và thi công các công trình dự án, nhất là các dự án trọng điểm. Bằng sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của người dân, Doanh nghiệp. Hà Tĩnh đã đạt được những kết khá tích cực; các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm, đời sống người dân được bảo đảm; Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

1. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)

Về quy mô kinh tế: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) của Hà Tĩnh trong năm 2022 ước đạt trên 92.960 tỷ đồng, xếp thứ 30/63 tỉnh, thành phố trong cả nước; GRDP bình quân đầu người ước đạt 70,47 triệu đồng/năm (tăng 3,77 triệu đồng/người/năm so với năm 2021), cao nhất khu vực Bắc Miền Trung và xếp thứ 9/14 các tỉnh Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung.

Về tốc độ tăng trưởng: Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo nên nền tảng vững chắc cho ổn định kinh tế vĩ mô mà còn bảo đảm việc làm, thu nhập, tạo nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Ước năm 2022, Tổng giá trị sản phẩm trong tỉnh (GRDP) theo giá so sánh tăng 3,98% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 0,83%, đóng góp 0,11 điểm %; khu vực Công nghiệp, xây dựng giảm 3,23%, làm giảm 1,46 điểm %, (riêng ngành Công nghiệp giảm 8,66% làm giảm 3,29 điểm %); khu vực Dịch vụ tăng 11,73% đóng góp 3,74 điểm %; thuế sản phẩm trừ trở cấp sản phẩm tăng 17,97%, đóng góp 1,59 điểm % vào mức tăng trưởng chung.

Trong 21 nhóm ngành kinh tế cấp I thì đã có 18 nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng dương, trong đó có những ngành có mức tăng trưởng khá cao như: Ngành xây dựng tăng 24,88%; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 14,59%; ngành dịch vụ vận tải kho bãi tăng 14,36%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 61,07%..vv. Tuy nhiên vẫn có 4 nhóm ngành công nghiệp không có tăng trưởng và làm giảm 3,29 điểm % vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Nhìn vào bức tranh kinh tế của Hà Tĩnh cho thấy, đây là năm thứ 2 của kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025 mà Hà Tĩnh chúng ta có mức tăng trưởng không đạt kế hoạch đề ra.

Về nguyên nhân chính dẫn đến nền kinh tế Hà Tĩnh có mức tăng trưởng thấp là do: (1) Sản xuất ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, thời tiết cực đoan, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp; cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa thực sự gắn với phát triển kinh tế nông thôn. (2) Sản xuất ngành công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn; tính từ tháng 7/2022, sản lượng sản xuất sản phẩm từ Công ty Formosa tiếp tục giảm. Cụ thể, ước năm 2022 sản lượng than cốc giảm 189 ngàn tấn, phôi thép giảm 650 ngàn tấn, thép giảm 910 ngàn tấn so với cùng kỳ năm 2021; bên cạnh sản lượng giảm điện sản xuất của Công ty Formosa (giảm 932 triệu KWh) thì tổ máy số 1 của Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 đến nay vẫn chưa hoạt động trở lại đã làm giảm 2171 triệu KWh. Và đây là 2 nguyên nhân chính dẫn đến Hà Tĩnh đạt tăng trưởng không như kỳ vọng.

Nếu tính chung giai đoạn 5 năm trở lại đây từ 2018 đến 2022 Hà Tĩnh có nhiều biến động trong tăng trưởng kinh tế, trong giai đoạn này tăng trưởng của Hà Tĩnh chịu ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19 và sự sụt giảm sản lượng sản xuất của ngành công nghiệp trong năm 2022. Tốc độ tăng GRDP bình quân giai đoạn 2018-2022 tăng 8,03%/năm, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,29%/năm; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 13,27%/năm; khu vực dịch vụ tăng 4,77%/năm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,31%/năm. Như vậy, việc ổn định hoạt động sản xuất của ngành công nghiệp nói chung và của một số doanh nghiệp lớn trên địa bàn nói riêng đặc biệt của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa; Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp của địa phương cũng như của cả nước tạo tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế cho những năm tiếp theo và tạo tiền đề cho bước đột phá mới.

Về cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông, LN, thủy sản. Cụ thể, ước năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 15,01%, giảm 0,58 điểm % so với năm 2021; khu vực công nghiêp - xây dựng chiếm 40,24% giảm 3,11 điểm %; khu vực dịch vụ chiếm 34,87%, tăng 2,55 điểm %; khu vực thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,88% tăng 1,14 điểm %.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Năm 2022, mặc dù thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết quả sản xuất vẫn đảm bảo kế hoạch đề ra về cơ cấu giống và thời vụ sản xuất. Sản lượng các cây trồng chủ lực của địa phương vẫn có mức tăng khá như cam, bưởi, ngô, khoai, sắn, rau các loại...Bên cạnh đó, các mô hình tích tụ, tập trung ruộng đất, cánh đồng lớn, chuỗi lên kết sản xuất tiếp tục được phát triển qua đó thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật mới, cơ giới hóa sản xuất; Chăn nuôi được phát triển theo hướng bền vững gắn với bảo vệ môi trường và kiểm soát dịch bệnh, hoạt động chăn nuôi cơ bản duy trì sản xuất, đạt mức tăng nhẹ cả về tổng đàn và sản lượng, việc tái đàn chưa có bước đột phá nào đáng kể do giá cả thất thường trong khi giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao; Hoạt động trồng, chăm sóc, khoanh nuôi rừng đạt kết quả ổn định và tăng nhẹ so với năm trước, công tác phòng cháy chữa cháy rừng, quản lý, bảo vệ rừng được quan tâm, tăng cường chỉ đạo; Sản xuất thủy sản duy trì mức tăng trưởng nhẹ so với năm trước.

Cây hàng năm: Kết quả sản xuất năm 2022, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn tỉnh sơ bộ tăng 0,17% (tăng 276 ha) so với năm 2021. Tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm sơ bộ giảm 2,54% (giảm 16.062 tấn) so với thực hiện năm trước. Kết quả cụ thể đối với một số cây trồng chủ lực như sau:

Cây lúa: Diện tích gieo trồng lúa cả năm sơ bộ giảm 169 ha so với năm 2021. Trong đó: Diện tích lúa vụ Đông Xuân đạt 59.813 ha, bằng 100,56% (tăng 335 ha); vụ Hè Thu đạt 44.526 ha, bằng 99,05% (giảm 429 ha) và vụ Mùa đạt 415 ha, bằng 84,64% (giảm 75 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu diện tích lúa Hè Thu năm nay giảm là do sản xuất vụ Đông Xuân kết thúc chậm hơn so với kế hoạch đề ra gây ảnh hưởng đến việc gieo cấy lúa. Ngoài ra, năm nay được đánh giá là năm thời tiết thất thường mưa nhiều nắng ít nên đã gặp khó khăn trong việc gieo cấy.

Năng suất gieo trồng lúa cả năm 2022 sơ bộ giảm 2,03 tạ/ha so với năm trước, trong đó: Năng suất gieo trồng lúa vụ Đông Xuân đạt 55,87 tạ/ha, bằng 94,77% (giảm 3,08 tạ/ha); vụ Hè Thu đạt 50,32 tạ/ha, bằng 98,44% (giảm 0,8 tạ/ha) và vụ Mùa đạt 16,44 tạ/ha, bằng 86,96% (giảm 2,47 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước do gặp điều kiện thời tiết bất thường ở một số giai đoạn sinh trưởng phát triển.

Tổng sản lượng lúa năm 2022 sơ bộ giảm 22.213 tấn so với năm 2021. Trong đó: Sản lượng lúa Đông Xuân đạt 333.566 tấn, bằng 95,36% (giảm 16.227 tấn); vụ Hè Thu đạt 224.062 tấn, bằng 97,5% (giảm 5.742 tấn) và sản lượng lúa vụ Mùa đạt 682 tấn, bằng 73,6% (giảm 244 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Do vụ Hè Thu, vụ Mùa giảm diện tích và cả ba vụ sản xuất giảm năng suất nên sản lượng lúa năm 2022 giảm so với năm 2021.

Cây ngô: Diện tích gieo trồng ngô năm 2022 sơ bộ tăng 767 ha so với năm trước. Trong đó diện tích gieo trồng ngô vụ Đông Xuân đạt 10.712 ha, bằng 105,22% (tăng 532 ha) và diện tích vụ Hè Thu đạt 2.239 ha, bằng 111,71% (tăng 235 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích ngô tăng là do năm nay giá thức ăn chăn nuôi tăng cao nên người dân tận dụng tối đa diện tích trồng ngô để phục vụ mục đích chăn nuôi. Năng suất ngô cả năm sơ bộ tăng 2,19 tạ/ha so với năm trước. Trong đó: Năng suất gieo trồng ngô vụ Đông Xuân đạt 46,41 tạ/ha, bằng 103,6% (tăng 1,61 tạ/ha) và vụ Hè Thu đạt 41,39 tạ/ha, bằng 114,84% (tăng 5,35 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Do cả diện tích và năng suất tăng nên sản lượng ngô cả năm tăng 6.151 tấn so với năm 2021.

Cây khoai lang: Diện tích trồng khoai lang năm 2022 sơ bộ tăng 191 ha so với năm trước. Trong đó: Diện tích gieo trồng khoai lang vụ Đông Xuân đạt 3.120 ha, bằng 105,97% (tăng 176 ha); vụ Hè Thu đạt 595 ha, bằng 106,98% (tăng 39 ha) và vụ Mùa đạt 46 ha, bằng 66% (giảm 24 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích tăng do một số huyện người dân được hỗ trợ giống cây khoai lang nên chuyển từ các loại cây khác sang trồng cây khoai lang. Năng suất khoai lang cả năm sơ bộ giảm 0,04 tạ/ha so với năm 2021. Trong đó: Năng suất vụ Đông Xuân đạt 75,52 tạ/ha, bằng 99,53% (giảm 0,35 tạ/ha); vụ Hè Thu đạt 59,86 tạ/ha, bằng 100,39% (tăng 0,23 tạ/ha) và vụ Mùa đạt 40,29 tạ/ha, bằng 95,93% (giảm 1,71 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khoai lang cả năm sơ bộ tăng 1.370 tấn so với năm 2021. Do diện tích tăng trong khi năng suất vẫn giữ ổn định nên sản lượng khoai lang tăng.

Cây sắn: Diện tích gieo trồng sắn năm 2022 sơ bộ đạt 2.625 ha, bằng 107,15% (tăng 175 ha) so với năm trước. Năng suất sơ bộ đạt 152,45 tạ/ha, bằng 100,86% (tăng 1,31 tạ/ha), với sản lượng sơ bộ đạt 40.025 tấn, bằng 108,08% (tăng 2.992 tấn) so với năm trước. Nguyên nhân tăng do năm nay giá thức ăn chăn nuôi tăng nên bà con nông dân trồng sắn làm thức ăn chăn nuôi để giảm bớt chi phí.

Cây lạc: Năm 2022, diện tích gieo trồng lạc sơ bộ giảm 1.182 ha so với năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân diện tích gieo trồng đạt 8.826 ha, bằng 88,07% (giảm 1.196 ha) và vụ Hè Thu đạt 368 ha, bằng 103,75% (tăng 14 ha) so với thực hiện cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích lạc giảm là do một số xã chủ động được nước tưới nên chuyển diện tích trồng lạc sang trồng lúa hoặc trồng rau cho kinh tế cao hơn. Ngoài ra, do chi phí đầu vào tăng cao (giống, vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) nên người nông dân không mặn mà trong sản xuất lạc mà chuyển sang cây trồng khác. Năng suất lạc cả năm sơ bộ giảm 3,85 tạ/ha so với năm trước. Do giảm cả diện tích và năng suất nên sản lượng lạc cả năm ước tính giảm 6.861 tấn so với năm trước.

Cây rau các loại: Năm 2022, diện tích gieo trồng rau sơ bộ tăng 483 ha so với năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân diện tích gieo trồng rau các loại đạt 11.098 ha, bằng 103,19% (tăng 344 ha); vụ Hè Thu diện tích gieo trồng đạt 2.866 ha, bằng 105,79% (tăng 157 ha) so với cùng kỳ năm trước và diện tích rau vụ Mùa đạt 194 ha, bằng 91,94% (giảm 18 ha). Năng suất rau cả năm sơ bộ tăng 0,67 tạ/ha với sản lượng rau cả năm sơ bộ tăng 4.325 tấn so với năm trước. Năm nay do lượng mưa nhiều, ít nắng hạn nên thuận lợi cho việc sản xuất các loại rau.

Về diện tích: Tổng diện tích cây lâu năm hiện có sơ bộ đạt 31.825 ha, bằng 101,03% (tăng 326 ha) so với năm 2021, trong đó:

Tổng diện tích cây ăn quả sơ bộ đạt 19.587 ha, bằng 102,54% (tăng 486 ha) so với năm 2021, chiếm 61,55% tổng diện tích cây lâu năm. Trong đó diện tích các loại cây ăn quả có múi thuộc họ cam, quýt sơ bộ đạt 13.456 ha, bằng 103,94% (tăng 510 ha) so với năm 2021, chiếm 68,70% tổng diện tích cây ăn quả. Diện tích cây cam sơ bộ đạt 7.616 ha, tăng 140 ha, trong đó diện tích cam cho sản phẩm 6.494 ha, tăng 432 ha; diện tích bưởi sơ bộ đạt 4.410 ha, tăng 461 ha, diện tích bưởi cho sản phẩm 2.996 ha, tăng 137 ha...Cây có múi vẫn đang là một trong những sản phẩm cây ăn quả hàng hóa chủ lực của Hà Tĩnh và đang được các địa phương quan tâm đầu tư sản xuất.

Diện tích cây cao su sơ bộ đạt 8.460 ha, bằng 99,63% (giảm 31 ha) so với năm 2021, trong đó diện tích cho sản phẩm tăng 422 ha. Trong năm 2022, thanh lý 4 ha cao su với sản lượng 100 m3, giá trị 53 triệu đồng. Năm 2022 trên địa bàn không trồng mới cây cao su.

Diện tích chè búp sơ bộ đạt 1.266 ha, bằng 102,01% (tăng 25 ha) và diện tích chè xanh (chè hái lá) sơ bộ đạt 1.763 ha, bằng 93,18% (giảm 129 ha) so với năm 2021. Nguyên nhân giảm là do diện tích đất trồng bị thu hồi để phụ vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng đường giao thông...Một số diện tích tại vườn nhà không hiệu quả, cây trồng lâu năm già cỗi, người dân phá bỏ trồng các loại cây khác.

Về sản lượng: Do không ngừng đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cùng với điều kiện thời tiết năm nay không xẩy ra hạn hán, ít sâu bệnh và diện tích được mở rộng nên sản lượng các loại cây ăn quả tăng hơn so với năm 2021.

Sản lượng cây ăn quả năm 2022 sơ bộ đạt 166.340 tấn, bằng 102,29% (tăng 3.727 tấn) so với năm 2021. Trong đó sản lượng các loại quả có múi thuộc họ cam, quýt sơ bộ đạt 115.763 tấn, bằng 103,20% (tăng 3.588 tấn) so với năm 2021: Sản lượng bưởi tăng 2.451 tấn; sản lượng cam tăng 1.436 tấn...Thời điểm này, bưởi đang tập trung thu hoạch chính vụ. Vụ cam năm nay do thời điểm khi cây ra hoa, kết trái gặp phải thời tiết mưa lạnh thất thường nên năng suất giảm hơn năm trước.

Sản lượng cao su sơ bộ đạt 4.091 tấn, bằng 111,50% (tăng 422 tấn). Cây đến kỳ khai thác cho mủ khá tốt, chất lượng mủ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.

Sản lượng chè búp sơ bộ đạt 10.652 tấn, bằng 108,16% (tăng 804 tấn) và sản lượng chè xanh (chè hái lá) sơ bộ đạt 19.668 tấn, bằng 98,61% (giảm 277 tấn) so với năm 2021. Chè chủ yếu tập trung ở các địa phương Hương Sơn, Hương Khê, huyện Kỳ Anh, Can Lộc, Thạch Hà...

Trên cây lúa: Ốc bươu vàng phát sinh gây hại giai đoạn mạ, mật độ trung bình 1-3 con/m2, diện tích nhiễm 75 ha, gây hại chủ yếu vùng sâu trũng tại Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên,…; bệnh đạo ôn lá gây hại hầu hết tại các địa phương với tỷ lệ bệnh trung bình 5-7%, diện tích nhiễm 356 ha, trong đó nhiễm nặng 36,2 ha ; bệnh đạo ôn cổ bông phát sinh gây hại ở hầu hết các địa phương, tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 400 ha, trong đó 30,2 ha nhiễm nặng; bệnh khô vằn phát sinh gây hại trên những chân ruộng gieo cấy dày, bón thừa đạm, tỷ lệ trung bình 3-7%, diện tích nhiễm 1.978 ha, trong đó 5 ha nhiễm nặng, phân bố trên toàn tỉnh; bệnh bạc lá, tỷ lệ trung bình 5-7%, diện tích nhiễm 200 ha, phân bố tại Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương khê, Lộc Hà; rầy nâu, rầy lưng trắng xuất hiện cục bộ dạng ổ ở Đức Thọ, thị xã Hồng Lĩnh mật độ 700-1500con/m2, diện tích 2,7 ha; chuột phát sinh gây hại trên toàn tỉnh, tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 280 ha.

Trên cây lạc: Bệnh héo rũ gốc mốc đen, mốc trắng phát sinh gây hại tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 35 ha, nhiễm nặng 1,3 ha phân bố tại Lộc Hà, Thạch Hà, Hương Khê, Vũ Quang,...

Trên cây ngô: Sâu keo mùa thu phát sinh gây hại trên trà ngô 3-7 lá, mật độ trung bình 1-3 con/m2, diện tích 5,3 ha, phân bố tại Vũ Quang, Hương Khê..; bệnh khô vằn diện tích nhiễm 22,5 ha tập trung ở Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn,...

Trên cây ăn quả có múi: Sâu vẽ bùa, sâu nhớt gây hại trên lộc xuân, diện tích nhiễm 68 ha; sâu xanh bướm phượng mật độ 1-3 con/cành, diện tích nhiễm 15 ha, sâu đục thân, đục cành 5 ha; bệnh loét sẹo, diện tích nhiễm 7 ha, phân bố tại Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê, Can Lộc,…

Trên cây lúa: Rầy nâu, rầy lưng trắng phát sinh gây hại chủ yếu trên diện tích sâu trũng, gieo cấy dày, mật độ trung bình 300-500 con/m2, diện tích nhiễm 12 ha, phân bố chủ yếu ở Đức Thọ, Can Lộc, Hương Sơn,…; bệnh khô vằn gây hại chủ yếu trên những chân ruộng gieo cấy dày, bón phân không cân đối, thừa đạm, diện tích nhiễm 1.301 ha, trong đó 41 ha nhiễm nặng phân bố hầu hết các địa phương trong tỉnh; bệnh bạc lá với diện tích nhiễm 3 ha, phân bố tại Đức Thọ, Hồng Lĩnh, Cẩm Xuyên, Lộc Hà,..; chuột phát sinh gây hại với tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 232 ha, phân bố hầu hết các địa phương.

Trên cây ngô: Sâu keo mùa thu phát sinh gây hại trên trà ngô sớm, diện tích nhiễm 5 ha, bệnh đốm lá 15 ha, sâu đục thân, đục bắp 7 ha, tập trung tại Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn, Cẩm Xuyên…

Trên cây ăn quả có múi: Nhện nhỏ, diện tích nhiễm 23 ha; rệp muội, diện tích nhiễm 18 ha; ruồi đục quả , diện tích nhiễm 21 ha, bệnh nứt thân xì mủ phát sinh gây hại chủ yếu trên vườn cây lâu năm, thoát nước kém, diện tích nhiễm 13 ha, phân bố tại Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Can Lộc,…

Năm 2022, kết quả chăn nuôi cơ bản duy trì sản xuất, đạt mức tăng nhẹ cả về tổng đàn và sản lượng, việc tái đàn chưa có bước đột phá nào đáng kể. Dịch bệnh tuy không gây thiệt hại lớn như những năm trước nhưng vẫn còn xuất hiện gây hại đối với đàn vật nuôi. Hậu quả mần bệnh của dịch tả lợn Châu Phi còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, gây tâm lý e ngại trong việc tái đàn của người dân. Cùng với đó, trong thời gian qua chi phí chăn nuôi tăng cao trong khi giá bán thấp và thiếu ổn định, đặc biệt là giá trâu, bò hơi giảm; các tổ chức tín dụng thắt chặt cho vay nên nguồn vốn đầu tư cho chăn nuôi gặp khó khăn, nhất là đối với các cơ sở chăn nuôi đang còn dư nợ các tổ chức tín dụng. Đây chính là những rào cản đối với sự phát triển chăn nuôi trên địa bàn thời gian qua và tiếp tục sẽ vẫn là những khó khăn trong thời gian tới.

Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Tĩnh, tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2022, một số dịch bệnh xuất hiện trên đàn vật nuôi, cụ thể như sau: Dịch tả lợn Châu Phi xẩy ra tại 41 xã thuộc 9 huyện, thành phố, thị xã (Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn, Vũ Quang, huyện Kỳ Anh, Thạch Hà, Thị xã Kỳ Anh, Lộc Hà, Thành phố Hà Tĩnh), tổng số lợn mắc bệnh, buộc phải tiêu hủy 946 con, khối lượng hơn 51 tấn. Dịch lở mồm long móng xẩy ra tại 9 xã, thị trấn thuộc 5 huyện (huyện Kỳ Anh; Hương Khê; Thạch Hà; Cẩm Xuyên; Nghi Xuân) với số lượng 40 con trâu, 136 con bò và 1 con lợn mắc bệnh và đã được điều trị khỏi bệnh. Dịch bệnh viêm da, nổi cục xẩy ra tại xã Quang Thọ, huyện Vũ Quang và 4 xã (Ích Hậu; Phù Lưu; Hồng Lộc; Thạch Châu) thuộc huyện Thạch Hà làm 8 con trâu và 3 con bò mắc bệnh, trong đó có 2 con bò bị chết tiêu hủy với trọng lượng 108 kg. Hiện nay, dịch bệnh viêm da nổi cục đã được khống chế và qua 21 ngày. Dịch cúm gia cầm H5N1 xảy ra tại xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ và xã Cẩm Quang, huyện Cẩm Xuyên, tổng số gia cầm bị ốm, chết và buộc tiêu hủy 4.913 con. Thời gian tới, để phát triển chăn nuôi bên cạnh các chính sách nhằm phát triển đàn thì công tác phòng, chống dịch bệnh phải tiếp tục được quan tâm thực hiện để đảm bảo an toàn cho đàn vật nuôi phát triển.

Hoạt động trồng và khai thác rừng năm 2022 vẫn được các cấp chính quyền cũng như người dân quan tâm thực hiện và đạt kết quả khá hơn so với năm 2021. Kết quả trồng rừng tập trung năm 2022 tăng 101 ha so với năm 2021. Diện tích trồng rừng chủ yếu tập trung ở các địa phương: Huyện Kỳ Anh, huyện Hương Khê, huyện Hương sơn, huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà...Đối với hoạt động khai thác, do rừng sản xuất đến kỳ thu hoạch nên sản lượng lâm sản khai thác năm 2022 ước tính tăng 27.066 m3 so với năm 2021.

Tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh đã xẩy ra 1 vụ cháy rừng (giảm 2 vụ), với diện tích rừng bị cháy là 0,4 ha (giảm 0,83 ha) và 106 vụ phá rừng (giảm 6 vụ), với diện tích rừng bị phá là 49,483 ha (giảm 0,411 ha) so với năm trước.

Năm 2022, sản xuất thủy sản trên địa bàn Hà Tĩnh nhìn chung ổn định và có sự tăng nhẹ (tăng 1,56% tương đương tăng 846 tấn) so với năm 2021. Sản lượng khai thác chiếm 70,5% tổng sản lượng thủy hải sản, tăng 343 tấn và sản lượng nuôi trồng năm 2022 ước tính tăng 503 tấn so với năm 2021. Mặc dù giá bán sản phẩm tương đối ổn định nhưng giá nhiên liệu và các chi phí khác trong thời gian qua tăng quá cao nên ngư dân gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả kinh tế đạt thấp. Cùng với đó là điều kiện, phương tiện, tiềm lực khai thác biển đầu tư phát triển chậm nên khó để tạo ra bước đột phá trong khai thác hải sản.

Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến 15/12/2022, đối với tôm nuôi bệnh đốm trắng với diện tích nhiễm bệnh là 87,3 ha và bệnh hoại tử gan tụy cấp tính với diện tích nhiễm bệnh là 9,23 ha. Khi bệnh xảy ra, các ngành chức năng đã cùng với người nuôi tôm xác định tác nhân gây bệnh, tiến hành dập dịch nhằm không để dịch bệnh lây lan và gây thiệt hại cho các hộ nuôi tôm.

Năm 2022, tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, các sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng cao trong sản xuất công nghiệp như điện sản xuất, thép giảm đã “kéo” giảm chỉ số sản xuất ngành công nghiệp của tỉnh xuống còn 16,53% so với cùng kỳ năm 2021 và đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế tỉnh nhà.

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP)

Ước tính tháng 12/2022, chỉ số sản xuất toàn ngành giảm 1,41% so với tháng trước và giảm 15,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng ước tăng 5,56% so với tháng trước và giảm 6,5% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước giảm 1,33% so với tháng trước và giảm 15,88% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện dự tính giảm 2,9% so với tháng trước và giảm 10,8% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xả lý rác thải dự ước tăng 3,03% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước giảm 23,46%.

Tính chung cả năm 2022, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh ước tính giảm 16,53% so với năm 2021. Trong đó: Ngành khai khoáng giảm 4,98%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 14,11%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 29,37%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải giảm 17,45% so với cùng kỳ năm 2021.

Trong 18 nhóm ngành công nghiệp cấp 2, có 9 nhóm ngành có chỉ số sản xuất cộng dồn cả năm tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 5 nhóm ngành có mức tăng cao, đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 190,15%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 65,72%; sản xuất đồ uống tăng 20,17%; sản xuất thuốc, hóa dược và dượ liệu tăng 18,22%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 10,63%.

Bên cạnh những ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng thì vẫn còn có 9 nhóm ngành giảm, làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng toàn ngành như: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 29,37%; khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 19,33%; sản xuất kim loại giảm 16,5%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 11,11%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 9,84%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 7,79%; khai khoáng khác giảm 5,3%; dệt giảm 1,49%; khai thác quặng kim loại giảm 1,02%.

Chỉ số tiêu thụ: Tính chung 12 tháng, chỉ số tiêu thụ giảm 19,88% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm sâu như: Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 64,16%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 25,13%; sản xuất kim loại giảm 21,05%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 19,88%. Như vậy trong năm 2022 nhu cầu tiêu thụ sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ, cho thấy các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong giai đoạn hiện nay.

Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 12/2022 tăng 26,01% so với tháng trước và tăng 65,51% cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 102,31%; sản xuất đồ uống tăng 82,21%; dệt tăng 55,25% … Với kết quả này cho thấy, việc tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của một số doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ chủ yếu là do tồn kho của sản phẩm than cốc của Công ty Formosa Hà Tĩnh (tăng 136,4% so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do Formosa sản xuất ra nguyên liệu chủ yếu giữ lại để phục vụ cho sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy, tồn kho của Formosa không phải là không tiêu thụ được, mà do doanh nghiệp giữ lại nguyên liệu để phục vụ cho hoạt động của mình.

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

4.1 Tình hình đăng ký kinh doanh

Năm 2022 vừa qua, Hà Tĩnh đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp; tiếp tục tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hồ sơ, thủ tục; triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, kịp thời thông tin, tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Ước đến ngày 20/12/2022, toàn tỉnh thành lập mới 1.380 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký gần 10.000 tỷ đồng (tăng 27,07% về số lượng và giảm 24,61% về số vốn đăng ký). Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,2 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2021 là 12,21 tỷ đồng); đã hỗ trợ đào tạo trên 1.000 lượt người về quản trị doanh nghiệp và khởi sự doanh nghiệp; có trên 400 doanh nghiệp tái gia nhập thị trường, tăng hơn 18% so với năm trước; 100% doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức đã áp dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ.

Song song với số lượng Doanh nghiệp thành lập mới, trong năm vừa qua, do nhiều yếu tố tác động khác nhau đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, cụ thể toàn tỉnh có 475 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động (tăng 12,29% so với cùng kỳ năm 2021), 192 doanh nghiệp giải thể (tăng 34,26% so với cùng kỳ năm 2021). Việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp trong năm qua là tín hiệu tích cực cho thấy xu hướng phục hồi của nền kinh tế.

Năm 2022, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai có hiệu quả các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, là điểm sáng của cả nước trong việc thu hút đầu tư. Cụ thể, trong năm vừa qua, Hà Tĩnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư cho 18 dự án, trong đó 16 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn gần 5.000 tỷ đồng, 02 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn hơn 278 triệu USD. Đã kết nối, xúc tiến dự án với các nhà đầu tư lớn đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, đô thị, du lịch, dịch vụ, phát triển nông nghiệp hữu cơ; tiếp tục đầu tư, phát triển Khu kinh tế Vũng Áng theo Nghị quyết số 09/NQ-TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Tính đến thời điểm hiện tại, các hạng mục quan trọng của dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II đang được tiến hành khẩn trương theo đúng tiến độ đề ra. Ngoài Nhiệt điện Vũng Áng II, các dự án lớn khác trong quá trình xây dựng như: Nhà máy Sản xuất Pin VinES (TX Kỳ Anh) dự kiến chạy thử trong quý I/2023; nhà máy bia Hà Nội - Nghệ Tĩnh đã đi vào sản xuất kinh doanh, các khu công nghiệp Cổng Khánh 2, khu đô thị TNR tại Thị xã Hồng Lĩnh, huyện Hương Sơn, huyện Đức Thọ, Thị xã Kỳ Anh... cũng đang được các nhà thầu tập trung thực hiện.

4.3. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Qua khảo sát các doanh nghiệp cho thấy, tỷ lệ các doanh nghiệp dự báo xu hướng sản xuất kinh doanh năm tiếp theo có xu hướng tăng lên so với năm hiện tại chiếm tỷ lệ cao. Điều này cho thấy tình hình sản xuất ngành công nghiệp đang có những chuyển biến tích cực và thuận lợi hơn trước. Cụ thể:

Doanh nghiệp dự báo xu hướng về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo năm tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn (53,49% doanh nghiệp); doanh nghiệp dự báo xu hướng giữ nguyên là 25,58% và 20,93% doanh nghiệp cho rằng năm tiếp theo khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo sẽ giảm đi so với hiện tại.

Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về số lượng đơn đặt hàng mới ngành chế biến chế tạo năm tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn nhất (53,49%); doanh nghiệp dự báo xu hướng giảm đi chỉ chiếm 20,93%.

Các doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ lệ cao (50%). Điều này cho thấy số lượng hàng hóa sản xuất cho tiêu thụ trong và xuất khẩu ra nước ngoài vẫn tiếp tục giữ ổn định trong năm 2023.

Với những điểm mới trong năm 2023, tỷ lệ số các doanh nghiệp vẫn nhận định và dự báo số lượng lao động năm tiếp theo sẽ vẫn giữ nguyên chiếm 65,12%; tỷ lệ doanh nghiệp dự báo sẽ tăng lao động chiếm 20,93%.

Trong năm tiếp theo, Hà Tĩnh đang kỳ vọng sự tăng trưởng từ những dự án mới như: Nhà máy Bia Hà Nội - Nghệ Tĩnh vừa đi vào vận hành; Nhà máy sản xuất Pin VinES dự kiến hoạt động vào cuối quý I/2023. Các dự án sắp sửa hoạt động trong thời gian tới đây sẽ góp phần làm đa dạng sản phẩm, gia tăng GTSX để ngành công nghiệp tiếp tục đóng vai trò là động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà.

5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:

Năm 2022 ghi nhận sự phục hồi và tăng trưởng tích cực từ nhóm ngành thương mại, dịch vụ, mặc dù còn có những khó khăn do biến động khó lường về tình hình giá cả nhất là nhóm nhiên liệu xăng, dầu, khí đốt theo tình hình chung của Thế giới, cũng như ảnh hưởng của thời tiết đến cung các loại hàng hóa nông nghiệp. Tháng 12 tháng giáp Tết Nguyên đán dự báo sẽ là tháng sôi động của thị trường bán buôn, bán lẻ hàng hóa và các loại hình dịch vụ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa: Năm 2022 đạt 52.885,7 tỷ đồng, tăng 26,09% so với năm trước. Tất cả các nhóm hàng hóa đều có doanh thu tăng so với năm 2021, trong đó, doanh thu tăng mạnh ở các nhóm hàng như: đá quý, kim loại quý tăng 56,15%; xăng, dầu các loại tăng 47,97%; hàng may mặc tăng 45,62%; hàng hóa khác tăng 39,32%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 29,15%; nhiên liệu khác tăng 26,45%; riêng nhóm ngành lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng doanh thu cao nhất ước đạt 22.991,79 tỷ đồng và có mức tăng cao 24,01%. Nguyên nhân doanh thu bán lẻ tăng cao trước hết do thu nhập người dân trong năm đã có bước khởi sắc so với năm 2021 ảnh hưởng dịch Covid 19 nên nhu cầu mua sắm tăng cao, nhất là những tháng cuối năm chuẩn bị Tết Nguyên đán. Bên cạnh đó, do chịu ảnh hưởng của sự tăng lên của giá cả, các nhóm hàng xăng dầu, nhiên liệu, sắt, thép, kim loại quý, đồ dùng công nghệ cao giá ở mức cao do ảnh hưởng từ thị trường thế giới. Tác động của yếu tố mùa vụ khi thời tiết chuyển biến thất thường, nắng nóng kéo dài đến những tháng cuối năm mới chuyển rét lại rét đậm ảnh hưởng năng suất các loại cây trồng, vật nuôi, buộc người dân phải nhập hàng từ vùng khác.

Nhìn chung, kinh tế Hà Tĩnh và tình hình hoạt động thương mại của tỉnh trong cả năm chịu nhiều tác động bởi tình hình kinh tế, chính trị thế giới. Những lo ngại về lạm phát, suy giảm kinh tế tác động đến cung cầu, giá cả nhiều nhóm hàng hóa trong nước. Tỷ giá ngoại tệ tăng, các nền kinh tế lớn điều chỉnh lãi suất và những bất ổn chính trị trên thế giới dẫn tới chuỗi cung ứng toàn cầu mất ổn định.

Trong bối cảnh đó, thị trường bán lẻ hàng hoá trong tỉnh vẫn rất sôi động. Cơ cấu doanh thu cũng có sự chuyển dịch từ chợ truyền thống sang các cửa hàng kinh doanh trên đường phố, ngõ xóm; chuyển từ các công ty, cơ sở cá thể trong tỉnh sang các tập đoàn, chuỗi bán lẻ trong nước. Đặc biệt thị phần bán lẻ của một số ngành nghề như bán lẻ điện thoại, đồ điện tử, điện lạnh, gia dụng trên địa bàn tỉnh của các doanh nghiệp ngoài tỉnh chiếm thị phần lớn. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng hoá lưu thông trong các cơ sở, doanh nghiệp bán hàng trực tuyến ngày càng tăng. Những yếu tố này đã tạo ra một thị trường kinh doanh đa dạng, có sức cạnh tranh cao, chất lượng hàng hoá ngày càng đi lên. Công tác kiểm tra, giám sát, chống gian lận thương mại, hàng giả, kiểm soát chặt chẽ. Bên cạnh đó, các ngành chức năng đã tăng cường công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; đảm bảo nhu cầu hàng hóa, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, các dịch vụ công thông suốt phục vụ đời sống và hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhân dân và doanh nghiệp.

Dịch vụ l­ưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành: Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành năm 2022 dự tính đạt 6.073,1 tỷ đồng, tăng 74,01% so với năm 2021. Trong đó: Dịch vụ lưu trú đạt 245,63 tỷ đồng, tăng 123,28%; lượt khách phục vụ 1.352.209 lượt khách, tăng 95%; ngày khách 1.081.562 ngày khách, tăng 76,52% so với năm trước; Dịch vụ ăn uống dự tính 5.811,25 tỷ đồng, tăng 72,3% so với năm trước; Dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch dự tính đạt 16,22 tỷ đồng, tăng 120,51%. Lượt khách theo tour 7.366 lượt khách tăng 40,12%, ngày khách du lịch theo tour 24.499 ngày khách tăng 75,43% so với năm trước.

Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành trên địa bàn tỉnh đang phục hồi tích cực sau năm 2021 bị hạn chế hoạt động. Các đơn vị kinh doanh ngày càng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ để phục vụ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Nguyên nhân tăng của nhóm ngành này có thế kể đến do: Thứ nhất thể hiện đời sống người dân đã được nâng lên rõ rệt so với năm 2021; thứ hai, do yếu tố tâm lý sau 1 năm bị kìm chế đến năm 2022 mọi hoạt động đã được tổ chức có quy mô và đầu tư hơn nhất là trong các dịp lễ, ngày nghỉ...; thứ ba, do yếu tố giá cả thực phẩm tăng, và ảnh hương tăng từ nhóm hàng ga, nhiên liệu kéo theo các chi phí khác tăng. Bên cạnh đó, không thể không kể sự thuận lợi về đường giao thông, phương tiện đi lại cũng như việc chính quyền và các doanh nghiệp đã đầu tư hơn cho chất lượng và hạ tầng các dịch vụ phục vụ lưu trú, ăn uống, các điểm du lịch Hà Tĩnh, đặc biệt là du lịch biển với những bãi biển đẹp như Thiên Cầm, Thạch Hải, Xuân Hải, Xuân Thành…, thu hút lượng khách đến các bãi biển, khu nghỉ dưỡng bắt đầu tăng. Ngoài số lượng khách nội tỉnh, khách du lịch ngoại tỉnh đến với Hà Tĩnh bắt đầu tăng lại khả quan hơn thời điểm trước dịch.

Dịch vụ khác năm 2022 ước tính đạt 2.578,04 tỷ đồng, tăng 73,78% so với năm trước. Hầu hết các nhóm ngành dịch vụ khác đều tăng mạnh so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm kinh doanh bất động sản tăng 79,43%; hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 63,86%; giáo dục đào tạo tăng 131,35%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 56,21%; dịch vụ tăng 109,06%. Chỉ có duy nhất nhóm y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 3,03% do năm 2021 hoạt động y tế đạt doanh thu ở dịch vụ hỗ trợ Covid, bước sang năm 2022 việc dịch bệnh đã được kiểm soát và người dân đã nâng cao nhận thức về tự phòng chống dịch vì vậy nhóm doanh thu này giảm so với năm 2021.

Nhìn chung, việc tăng doanh thu ở nhóm dịch vụ khác chủ yếu ở các nguyên nhân cụ thể sau: Thứ nhất, nhờ tác động của các chính sách kinh tế - xã hội từ Trung ương đến địa phương được thực hiện hiệu quả và cũng có những giải pháp kịp thời khắc phục những khó khăn đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, tạo thuận lợi cho hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển. Thứ hai, Hà Tĩnh chủ yếu phát triển dịch vụ nên việc các ngành dịch vụ đã hoạt động mạnh trở lại nên thu nhập người dân đảm bảo hơn, nhu cầu về dịch vụ hỗ trợ hành chính, dịch vụ y tế, dịch vụ vui chơi giải trí và dịch vụ làm đẹp tăng. Thứ ba, thời tiết nắng nóng kéo dài khá lâu, mùa mưa lạnh đến chậm hơn nên tạo điều kiện cho người dân triển khai các công trình xây dựng cá nhân, các doanh nghiệp xây dựng đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình. Dự ước những năm tới hoạt động dịch vụ khác sẽ tăng trưởng khả quan theo đà tăng trưởng của năm 2022.

Cũng như các ngành dịch vụ, năm 2022 ghi nhận sự tăng trưởng mạnh của hoạt động vận tải. Việc tăng giá nhiên liệu đẩy phí vận tải tăng lên tuy nhiên không ảnh hưởng đến sức tiêu dùng hoạt động của người dân và các tổ chức kinh tế, ngược lại việc giá phục vụ cao cộng với sự can thiệp của các cơ quan chức năng đã nâng cao ý thức của các lái xe tuân thủ về tải trọng cũng như lượng hành khách phục vụ đảm bảo an toàn giao thông, vận tải. Trong năm chỉ có hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải giảm do việc xuất khẩu hàng hóa gặp khó khăn số lượng hàng hóa thông qua cảng giảm.

Doanh thu vận tải, kho bãi năm 2022 ước đạt 5.446,13 tỷ đồng, tăng 25,45% so với năm 2021. Trong đó:

Vận tải hành khách doanh thu ước đạt 1.195,81 tỷ đồng, tăng 42,38% so với năm trước. Số lượng hành khách vận chuyển ước đạt 15.424,46 nghìn HK, tăng 39,44% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 2.644,88 triệu HK.km, tăng 42,15% so với năm trước. Việc chú trọng đầu tư của các đơn vị kinh doanh lữ hành, lưu trú, nhà hàng là những yếu tố quan trọng đóng vai trò “kích cầu” tăng nhu cầu du lịch, đi chơi vào các dịp nghỉ lễ, cũng như nhu cầu đi lại hàng ngày đi học và làm việc nội và ngoại tỉnh cộng với việc tăng giá vé phục vụ đã khiến doanh thu vận tải hành khách đạt mức tăng kỷ lục, tuy nhiên việc tỉ trọng doanh thu của vận tải hành khách thấp hơn nhiều so với vận tải hàng hóa nên kết quả tăng chung của ngành vận tải vẫn chỉ đạt trên 25%.

Vận tải hàng hóa ước đạt 3.401,34 tỷ đồng, tăng 29,54% so với năm trước. Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước tính đạt 38.193,31 nghìn tấn, tăng 30,12% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 971,99 triệu tấn.km, tăng 27,89% so với cùng kỳ năm trước. Do thời tiết thuận lợi cho các công trình xây dựng, san lấp mặt bằng thực hiện thi công nên nhu cầu sử dụng phương tiện vận tải hàng hóa tăng. Nhu cầu xây dựng, sửa sang nhà cửa trong nhân dân tăng cùng với việc đẩy mạnh công tác chỉnh trang đô thị, nhiều dự án đang được triển khai đầu tư nên nhu cầu vận chuyển vật liệu xây dựng tăng.

Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 848,05 tỷ đồng, giảm 3,16% so với năm trước. Nguyên nhân do khối lượng hàng hóa thông qua cảng giảm cũng như nhu cầu đăng kiểm giảm hơn. Mặc dù các hoạt động sản xuất kinh doanh được phục hồi nên nhu cầu đi lại cũng như vận chuyển hàng hóa năm 2022 tăng khá cao so với năm 2021. Tuy nhiên, do chi phí xăng, dầu, lãi suất ngân hàng...tăng cao nên các đơn vị hoạt động vận tải trên địa bàn Hà Tĩnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Kết quả thu NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh năm 2022 vượt dự toán Trung ương và HĐND tỉnh giao điều này cho thấy cộng đồng doanh nghiệp Hà Tĩnh đã thích nghi với trạng thái bình thường mới, duy trì sản xuất, kinh doanh ổn định trong điều kiện dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát. Trong bối cảnh thực hiện nhiều chính sách phục hồi kinh tế như miễn, giảm, giãn các khoản thuế, phí để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, Hà Tĩnh đang làm tốt nhiệm vụ thu ngân sách và cân đối, phát triển nền kinh tế. Chi ngân sách Nhà nước trong năm cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh của địa phương.

Năm 2022 tổng thu ngân sách nhà nước (đã loại trừ hoàn thuế) trên địa bàn tính đến ngày 15/12/2022 sơ bộ đạt 14.606 tỷ đồng giảm 5,44% so với năm 2021. Trong đó, thu nội địa đạt 8.028 tỷ đồng tăng 1,28% so với năm 2021, tập trung chủ yếu vào các nguồn thu lớn như từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài, thuế ngoài quốc doanh đạt 3.137 tỷ đổng tăng 14,65% so với năm 2021; các khoản thu về nhà đất đạt 2.953 tỉ đổng giảm 3,67%. Năm 2022 các khoản thu từ thuế, phí giảm chủ yếu do áp dụng nhiều chính sách của Trung ương hỗ trợ thuế để phục hồi phát triển kinh tế, một số dự án mới dự kiến đóng góp lớn vào thu ngân sách trong năm nhưng đến nay chưa triển khai đầu tư. Bên cạnh các khoản thu nội địa thì thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt 6.335 tỉ đồng giảm 6,38% so với năm trước. Trong đó, thu hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 9.047,58 tỷ đồng, tăng 16,10 % so với năm trước nguyên nhân chủ yếu do giá các mặt hàng nhập khẩu như than, dầu, quặng (chủ yếu phục vụ sản xuất của Formosa) tăng cao đem lại nguồn thu lớn; hoàn thuế giá trị gia tăng đạt 2.713 tỉ đồng tăng 164,45% so với cùng kỳ.

Trên cơ sở tiến độ thu ngân sách thực tế, với các giải pháp điều hành linh hoạt, hợp lý nên chi ngân sách cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ đã bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương. Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến ngày 15/12/2022 sơ bộ đạt 19.128 tỷ đồng giảm 4,63% so với năm 2021. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển đạt 8.565 tỷ đồng, chiếm 44,78% tổng chi, giảm 11,46% so với cùng kỳ năm 2021; chi thường xuyên đạt 10.476 tỷ đồng chiếm 54,77% tăng 1,07% so với năm 2021. Chi đầu tư giảm so với cùng kỳ nguyên nhân công tác giải ngân vốn đầu tư công một số dự án còn chậm; vướng mắc trong thủ tục và trong công tác đền bù GPMB.

Hoạt động ngân hàng Hà Tĩnh năm 2022 cơ bản ổn định và có bước tăng trưởng. Các TCTD đã bám sát chỉ đạo điều hành của Nhà nước, tập trung mọi nguồn lực để đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, các dự án, phương án có hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương năm 2022.

Ước nguồn vốn huy động đến 31/12/2022 đạt 83.177 tỷ đồng, giảm 4,86% so với cuối năm 2021.Trong đó, nguồn vốn huy động trung, dài hạn ước đạt 11.925 tỷ đồng, chiếm 14,34% tổng nguồn vốn huy động, tăng 3,47% so với cuối năm 2021; nguồn vốn huy động ngắn hạn đạt 71.252 tỷ đồng, chiếm 85,66 % tổng nguồn vốn huy động, giảm 6,12%. Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 60.236 tỷ đồng, tăng 3,78%; tiền gửi thanh toán ước đạt 22.026 tỷ đồng, giảm 23,88% so với thời điểm cuối năm 2021. Nguồn vốn huy động giảm so với cuối năm 2021 nguyên nhân chủ yếu do nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế giảm mạnh với mức giảm 25,9% so với cuối năm 2021. Tình hình dịch Covid-19 trong tỉnh và cả nước đã được kiểm soát và các chính sách nhằm phục hồi, phát triển kinh tế của Chính phủ được triển khai đã thúc đẩy các doanh nghiệp trên địa bàn sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh.

Dư nợ cho vay ước đến ngày 31/12/2022 đạt 89.105 tỷ đồng, tăng 24,14% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ ngắn hạn ước đạt 60.854 tỷ đồng (chiếm 68,29% tổng dư nợ), tăng 24,73%; dư nợ trung dài hạn đạt 28.251 tỷ đồng (chiếm 31,71% tổng dư nợ) tăng 22,90%. Dư nợ đối với các lĩnh vực ưu tiên đạt 37.043 tỷ đồng, tăng 19,51% so với cuối năm 2021. Tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng khá, trong đó tín dụng đối với cho vay nông nghiệp nông thôn tăng 21,57% so với cuối năm 2021, cho vay thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu tăng 73,84%, cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 11,84%. Sự phục hồi của nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới đã tác động mạnh vào hoạt động xuất khẩu của cả nước nói chung và Hà Tĩnh nói riêng. Chính vì vậy, việc hỗ trợ các DN xuất khẩu phục hồi và duy trì chuỗi cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cao của các thị trường xuất khẩu lớn trong thời gian tới là một trong những giải pháp quan trọng giúp phát triển kinh tế Hà Tĩnh.

Các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiêm túc chấp hành các quy định điều hành lãi suất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, không có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, vượt trần. Lãi suất huy động tiền gửi bằng VNĐ ở mức 0,1-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,9-6% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,7-7,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; 6,2-9,2%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Lãi suất huy động USD ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của tổ chức và dân cư. Lãi suất cho vay VNĐ ngắn hạn phổ biến 5,5-11%/năm, trung dài hạn phổ biến 10,5-13,5%/năm. Lãi suất cho vay USD ngắn hạn phổ biến ở mức 2-4,5%/năm; trung, dài hạn phổ biến mức 5,5-5,6%/năm Công tác quản lý ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng được triển khai thực hiện nghiêm túc tại địa bàn. Tính đến 31/12/2022 nợ xấu ước tính 665 tỷ đồng, chiếm 0,75% tổng dư nợ. Nhìn chung tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ở mức thấp nằm trong giới hạn cho phép.

Năm 2022, nhờ đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tăng cường quyết toán dự án đầu tư, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng. Do đó tổng vốn đầu tư toàn xã hội ở 3 khu vực đều tăng cao, tăng 47,74% so với năm 2021.

Với việc đang tập trung cao trong triển khai thực hiện các công trình, dự án trọng điểm trên địa bàn. Vì vậy, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn ước đạt 40.355,1 tỷ đồng, tăng 47,74% so với năm 2021. Trong đó, được phân theo các khu vực như sau:

Khu vực nhà nước ước đạt 9.314,7 tỷ đồng, tăng 15,86% so với năm 2021. Trong đó: Vốn ngân sách nhà nước 8.264 tỷ đồng (gồm giải ngân đầu tư công, giải phóng mặt bằng dự án Đường cao tốc Bắc Nam); vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước 157 tỷ đồng. Đến thời điểm hiện nay Hà Tĩnh có 04 dự án được hỗ trợ 810 tỷ đồng từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, đến nay đều đã được HĐND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư đảm bảo tiến độ, hiện các đơn vị, địa phương đang hoàn thiện hồ sơ, thủ tục để đầu tư theo quy định.

Khu vực ngoài nhà nước ước đạt 21.364,5 tỷ đồng, tăng 19,37% so với năm 2021. Trong đó: Vốn của dân cư đạt 12.745,2 tỷ đồng; vốn của doanh nghiệp đạt 8.619,3 tỷ đồng (dự án Pin VINES 3.694 tỷ đồng, Khu dân cư tổ 6,7 phường Đậu Liêu 220 tỷ đồng, Nhà máy bia Hà Nội Nghệ Tĩnh 50 tỷ đồng...).

Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 9.675,9 tỷ đồng, tăng gấp 7 lần so với năm 2021. Nguồn vốn khu vực này tăng chủ yếu do dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 2, trong năm dự ước vốn thực hiện đạt trên 8.600 tỷ đồng.

Năm 2022, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và sự huy động mọi nguồn lực của các đơn vị thi công, cùng với đó là chính quyền địa phương các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xử lý kịp thời các khó khăn vướng mắc, thực hiện nhanh công tác bàn giao mặt bằng phục vụ triển khai các dự án trên địa bàn, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình xây dựng. Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có nhiều khởi sắc, giá trị tăng thêm ngành xây dựng theo giá so sánh năm 2022 ước đạt 4.688 tỉ đồng, tăng 24,88% so với cùng kỳ năm 2021; đây là năm ngành xây dựng đạt mức tăng trưởng dương trở lại trong vòng 5 năm, kể từ khi nhà máy Gang thép Formosa cơ bản hoàn thành xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất.

Hiện tại, Hà Tĩnh đang tiếp tục triển khai có chiều sâu các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

Hoạt động xuất nhập khẩu Hà Tĩnh năm 2022 gặp khá nhiều khó khăn, thách thức do sự bất ổn của tình hình thế giới, nhất là trong xuất khẩu mặt hàng giữ tỷ trọng lớn thép và phôi thép. Tuy nhiên, nhờ sự linh hoạt trong việc ứng phó khó khăn,cũng là cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh khác như dệt, may mặc, chè, thủy sản....Nhưng việc giá trị của các mặt hàng này có khá nhỏ nên dù tăng mạnh cũng không kéo lại tăng trưởng Xuất khẩu chung. Năm 2022 tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tỉnh ước đạt 5.200,64 triệu USD giảm 1,87% so với cùng kỳ.

- Kim ngạch xuất khẩu: Năm 2022 ước đạt 1.800,2 triệu USD, giảm 9,99% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài mặt hàng thép, phôi thép ước đạt 1.559,13 triệu USD giảm 13,38% so với năm 2021 còn có các nhóm hàng khác giảm như thủy sản giảm 15,92%; xơ, sợi dệt các loại giảm 27,45%. Có 3 nhóm hàng tăng mạnh và nâng dần tỷ trọng xuất khẩu như: Hàng dệt và may mặc đạt 27,49 triệu USD tăng 113,1% so với năm 2021; dăm gỗ đạt 75,44 triệu USD tăng 54,91% so với năm 2021; chè đạt 0,3 triệu USD tăng 25,0% so với năm 2021. Điểm sáng xuất khẩu năm 2022 là mặt hàng dệt và may mặc có sự tăng trưởng tốt là nhờ tình hình dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát nên việc cung ứng nguyên liệu, khâu vận chuyển hàng đảm bảo thông suốt và đơn hàng từ thị trường các nước đối tác thương mại ổn định hơn năm trước. Tính riêng xuất khẩu từ Formosa ước đạt 1.626,47 triệu USD (chiếm 90,35% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh) giảm 12,6% so với năm 2021.

- Kim ngạch nhập khẩu: Năm 2022 ước đạt 3.400,44 triệu USD, tăng 3,04% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất Formosa đạt 2.927,66 triệu USD (Chiếm 86,1%) tăng 6,04%.

Mặc dù hoạt động xuất khẩu chủ yếu là hoạt động của Formosa, nhưng việc giảm dần tỷ trọng đóng góp (Xuất khẩu giảm 2,7 điểm phần trăm) đánh dấu sự chuyển biến trong hoạt động xuất khẩu của tỉnh nhà. Để kim ngạch xuất nhập khẩu đạt con số tăng trưởng cao nhất, cơ quan chức năng đang tích cực hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghệp khai thác hiệu quả các lợi thế từ FTA (Hiệp định thương mại tự do); đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường xúc tiến thương mại để gia tăng sản phẩm xuất khẩu và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo đề án đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gắn với phát triển dịch vụ logistics tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2021 - 2025…

Tình giá cả các mặt hàng năm 2022 khá khó nắm bắt, sự lên xuống của giá cả thị trường hàng hóa biến động từng ngày. Nhưng nhìn chung, chỉ số giá tiêu dùng chung năm 2022 cơ bản được kiểm soát, nhất là tháng 12 tháng giáp Tết Nguyên đán. Một số nhóm hàng có chỉ số sự bến động tăng mạnh như giao thông, vật liệu xây dựng, đồ uống, hàng may mặc và giải trí... Bên cạnh đó cũng có những nhóm hàng có chỉ số giảm như hàng ăn và dịch vụ ăn uống, bưu chính viễn thông.

Tháng 12 năm 2022, chỉ số giá CPI chung giảm nhẹ 0,1% so với tháng trước nhưng so với cùng kỳ vẫn ở mức tăng 3,2%%. Trong đó, nhóm giao thông đã có dấu hiệu hạ nhiệt khi giảm 2,2% so với tháng trước và tăng nhẹ 0,9% so với cùng kỳ. Do việc giá xăng, dầu bình quân giảm dần qua các lần điều chỉnh trong tháng do ảnh hưởng từ thị trường thế giới. Tại đợt điều chỉnh ngày 21/12 vừa qua, giá xăng E5 RON 92 giảm 370 đồng/lít, còn 19.970 đồng/lít; xăng RON 95 giảm 500 đồng/lít, còn 20.700 đồng/lít. Trong khi đó, giá dầu hỏa giảm 70 đồng/lít xuống còn 21.830 đồng/lít, dầu diesel giảm 70 đồng/lít còn 21.600 đồng/lít, dầu mazut giảm 150 đồng/kg xuống 12.860 đồng/kg. Như vậy, giá xăng đã có lần giảm thứ 4 liên tiếp trong thời gian qua. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giá cả vẫn đang tăng nhẹ 0,87% so với tháng trước và so với cùng kỳ đã giữ mức tăng 5,18%, do việc mặt hàng chăn, ga, gối đệm, bàn là điện, bình nước nóng và đồ nội thất tăng giá theo nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, nhu cầu các vật dụng trang trí nhà ở trong dịp lễ Giáng sinh cũng góp phần làm chỉ số nhóm giá này tăng.

Tính chung cả năm 2022, chỉ số giá CPI tăng 2,2% so với năm trước. Trong đó: Khu vực thành thị tăng 1,95%; nông thôn tăng 2,3% so với năm trước. Nếu phân theo nhóm ngành hàng thì chỉ có 2 nhóm hàng có chỉ số giảm là nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,37%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm không đáng kể 0,07% so với năm 2021. Xét trong nhóm hàng lương thực, thực phẩm mặc dù giảm rất ít nhưng đây là nhóm hàng thiết yếu lại bao gồm rất nhiều loại hàng hóa và có nhiều biến động. Cụ thể giá gạo và thịt các loại giảm so với năm trước do nguồn cung đã cơ bản ổn định, nhưng nhóm rau củ thì biến động rất thất thường, có lúc ở mức rất cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Còn lại tất cả các nhóm hàng đều tăng, cụ thể có một số nhóm hàng tăng cao như: nhóm giao thông tăng 9,62%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,05%, văn hóa giải trí du lịch tăng 2,9%.; đồ uống thuốc lá tăng 2,27%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,92%... Do tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục bất ổn ảnh hưởng đến kinh tế trong nước, tác động đến nhiều nhóm hàng hóa như xăng, dầu, khí đốt, vàng, sắt thép, đồ dùng công nghệ cao. Nền kinh tế khó khăn trên phạm vi toàn cầu, chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng đã dẫn tới hoạt động sản xuất trong nước gặp bất lợi.

Nhìn chung, thị trường tiêu dùng, từ đầu năm đến nay các mặt hàng có mức biến động mạnh chủ yếu tập trung ở các nhóm lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện nước sinh hoạt. Bên cạnh đó, nhờ sự phục hồi của nền kinh tế, thu nhập của người dân tăng hơn năm trước, kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Mức tăng tập trung ở các tháng đầu năm, chịu ảnh hưởng bởi nhóm nhiên liệu xăng, dầu các loại tăng mạnh. Nguyên nhân chủ yếu do những bất ổn về kinh tế, chính trị trên thế giới đã tác động đến thị trường tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong nước. Năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 1,43% so với năm trước; chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,12% so với năm trước.

Dự kiến CPI tháng 01/2023 dự kiến tăng mạnh, mức tăng tăng dần từ thời điểm cuối tháng 12/2022 và giữ hết tháng 1/2023, khi thời điểm dịp Tết Nguyên đán đến gần. Mức tăng chủ yếu tập trung các nhóm lương thực, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, hàng may mặc, nội thất gia đình, cước vận tải hành khách, vật phẩm trang trí nhà ở, điện và khí đốt. Để bảo đảm nguồn hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán, các siêu thị lớn, doanh nghiệp trên địa bàn Hà Tĩnh đang có sự chuẩn bị về nguồn hàng cũng như đưa ra nhiều chương trình kích cầu…Bên cạnh đó, các ngành chức năng tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; đảm bảo nhu cầu hàng hóa, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, các dịch vụ công thông suốt để phục vụ đời sống cũng như sử dụng hợp lý quỹ bình ổn giá để bình ổn thị trường.

1. Dân số, lao động và việc làm

Năm 2022, tình hình dịch bệnh covid-19 ở Hà Tĩnh cơ bản được kiểm soát tốt, các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động ổn định trở lại, nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp ở Hà Tĩnh tăng cao, đặc biệt tập trung một số nhóm ngành may mặc, điện, cơ khí và dịch vụ kinh doanh… vỳ vậy tình hình về lao động và việc làm ở Hà Tĩnh có phần khởi sắc hơn so với năm trước.

Dân số trung bình năm 2022 ước tính 1.319.181 người, tăng 0,39 % so với năm 2021 (tăng 5.125 người). Trong đó, dân số thành thị 294.156 người, chiếm 22,3%; dân số nông thôn 1.025.025 người, chiếm 77,7%; dân số nam 654.053 người, chiếm 49,58% và dân số nữ 665.128 người, chiếm 50,42%.

Ước năm 2022, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên ước tính là 530.805 người tăng 3,34% so với năm 2021; trong đó lực lượng lao động nam là 280.673 người, chiếm 52,88%; lực lượng lao động nữ là 250.132 người chiếm 47,12% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 123.132 người, chiếm 23,20%; nông thôn là 407.673 người chiếm 76,80%.

Tính chung năm 2022, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên có việc làm là 505.162 người, chiếm 95,17% tổng số lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 3,18% so với năm 2021. Trong tổng số, lao động có việc làm ở thành thị chiếm 23,47%; nông thôn chiếm 76,53%; ở nam giới chiếm 52,73%; nữ giới chiếm 47,27%. Số lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là 155.170 người, chiếm 30,72% trong tổng số; ngành công nghiệp và xây dựng là 144.686 người, chiếm 28,64%; ngành dịch vụ là 205.306 người, chiếm 40,64%.

Theo số liệu Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động năm 2022 là 22.995 người, đạt 104,52% kế hoạch năm 2022, tăng 1,89% so với năm 2021. Trong đó: lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 7.293 người, chiếm 31,72% trong tổng số, giảm 36,8%; lao động đi làm việc ngoại tỉnh 4.185 người, chiếm 18,2%, giảm 23,1%; xuất khẩu lao động 11.517 người, chiếm 50,08%, tăng 106,14%.

Ước năm 2022, số người không có việc làm (thất nghiệp) ước tính là 25.643 người, chiếm 4,83% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 0,15 điểm phần trăm so với năm trước. Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp năm 2022 ước tính là 5,1%, giảm 0,28 điểm phần trăm so với năm trước.

2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Đời sống dân cư: Sau thời gian dài gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, các đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã hoạt động bình thường và dần đi vào ổn định. Bên cạnh đó, Hà Tĩnh tiếp tục tập trung chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi; ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất; thu hút các dự án đầu tư mới góp phần giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người dân, nhìn chung đời sống nhân dân ổn định, toàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói trong dân cư. Thu nhập bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 45,08 triệu đồng/năm tăng 26,03% so với năm 2021.

Công tác giảm nghèo: Năm 2022, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai các chương trình, đề án giảm nghèo với mục tiêu là giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho người dân đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Theo kết quả rà soát, hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022, toàn tỉnh còn 14.527 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 3,79% (giảm 3.321 hộ nghèo so với năm 2021, tương ứng giảm 0,89% tỷ lệ hộ nghèo); tổng số hộ cận nghèo 15.486 hộ, chiếm tỷ lệ 4,04% (giảm 3.934 hộ cận nghèo so với năm 2021, tương ứng giảm 1,05% tỷ lệ hộ cận nghèo).

Công tác đảm bảo an sinh xã hội: Năm 2022 toàn tỉnh đã trao tặng khoảng 502.448 suất quà cho các đối tượng người có công, hộ nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng bảo trợ xã hội với tổng số tiền là 158,361 tỷ đồng. Cụ thể: Tặng quà cho người có công khoảng 304.599 suất quà trị giá 83,498 tỷ đồng; Tặng quà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo khoảng 50.576 suất quà trị giá 25,376 tỷ đồng; Tặng quà cho người cao tuổi khoảng 37.207 suất quà trị giá 10,656 tỷ đồng; Tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn khoảng 66.500 suất quà trị giá 19,4 tỷ đồng; tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng khác khoảng 43.566 suất quà trị giá 19,431 tỷ đồng. Trao tặng 96 sổ tiết kiệm với tổng số tiền là 589 triệu đồng cho người có công. Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương xây mới là 742 nhà kinh phí khoảng 50.895 triệu đồng; Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương sửa chữa là 80 nhà kinh phí khoảng 1.342 triệu đồng. Cấp khoảng 22.429 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, 42.726 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, 151.994 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và 49.037 thẻ bảo hiểm y tế cho người có công.

Thực hiện Quyết định số 08/2022/QĐ-Ttg ngày 28/03/2022 của Chính Phủ về “Quy định việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động”; Kế hoạch số 164/KH-UBND ngày 11/5/2022 của UBND tỉnh về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đến nay Hà Tĩnh đã hoàn thành việc chi trả hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động. Tổng số lao động được hỗ trợ 1.314 lao động với kinh phí hỗ trợ 1.999,5 triệu đồng, được chia làm 4 đợt. Đợt 1 là 301 lao động, kinh phí hỗ trợ 459 triệu đồng; đợt 2 là 375 lao động, kinh phí hỗ trợ 580 triệu đồng; đợt 3 là 169 lao động, kinh phí hỗ trợ 258 triệu đồng; đợt 4 là 465 lao động, kinh phí hỗ trợ 698,5 triệu đồng.

Nhìn chung, công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh triển khai kịp thời; các cấp, các ngành làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khác kịp thời, chu đáo.

Giáo dục phổ thông: Trong tháng đã diễn ra kỳ thi học sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm học 2022 - 2023 vào ngày 13/12 với tổng số 913 thí sinh tham gia ở 10 bộ môn: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Tin, Văn, Sử, Địa, Anh, Pháp. Kết quả toàn tỉnh có 562 thí sinh đạt giải, trong đó có 57 giải nhất, 158 giải nhì, 198 giải ba và 149 giải khuyến khích. Ngoài số thí sinh tham gia dự thi đạt giải, năm nay, toàn tỉnh còn có 91 thí sinh được đặc cách công nhận học sinh giỏi tỉnh môn tiếng Anh theo Quyết định số 1472/QĐ-SGDĐT về việc đặc cách công nhận học sinh giỏi tỉnh năm học 2022 - 2023 của Sở GD&ĐT.

Trên cơ sở những kết quả đạt được của năm học trước, năm học mới 2022-2023 ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, toàn tỉnh có 668 trường, trong đó có 527 trường đạt chuẩn quốc gia (gồm 255 trường mầm non (tăng 186 trường so với năm học trước), 221 trường tiểu học (không đổi), 147 trường THCS (không đổi), 45 trường THPT (không đổi)); với 10.783 lớp (mẩu giáo 2917 lớp (tăng 49 lớp); tiểu học 4250 lớp (tăng 82 lớp); THCS 2.427 lớp (tăng 83 lớp); THPT 1.189 lớp (giảm 3 lớp); 18.778 giáo viên (mầm non 5.621 người (giảm 73 giáo viên); tiểu học 5.605 người (tăng 232 giáo viên); THCS 4.799 người (tăng 361 giáo viên); THPT 2.753 người (tăng 29 người) và 335.175 học sinh (mầm non 74.416 học sinh (giảm 3.182 học sinh); tiểu học 136.500 học sinh (tăng 5886 học sinh); THCS 82.423 học sinh (tăng 4.609 học sinh); THPT 41.836 học sinh (tăng 3715 học sinh).

Giáo dục đào tạo: Năm 2022 các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã duy trì tổ chức đào tạo nghề cho khoảng 19.671 người. Trong đó: trình độ cao đẳng nghề khoảng 662 người; trình độ trung cấp nghề khoảng 4.190 người; trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng khoảng 14.819 người. Các cơ sở đào tạo luôn quan tâm chú trọng công tác giới thiệu, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp. Mở thêm các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, có định hướng, khảo sát tiềm năng và tính bền vững của nghề đào tạo.

4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Tình hình dịch Covid 19: Mặc dù tình hình dịch bệnh hiện nay đang được kiểm soát, nhưng virus liên tục biến đổi với các biến chủng mới; tiềm ẩn khả năng lây lan nhanh. Vì vậy, Hà Tĩnh tiếp tục rà soát những người trên 12 tuổi đủ điều kiện nhưng chưa tiêm vắc xin và trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi để triển khai tiêm vắc xin đạt tỷ lệ và hiệu quả cao nhất; tiếp tục tuyên truyền, vận động nâng cao tỷ lệ tiêm vắc xin mũi nhắc lại theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Đồng thời, đẩy mạnh triển khai các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 và tiếp tục thực hiện cập nhật, “làm sạch” dữ liệu tiêm chủng COVID-19 theo Văn bản số 4891/UBND-VX1 ngày 31/8/2022 của UBND tỉnh.

Tổng số ca mắc từ ngày 01/01/2022 đến ngày 21/12/2022 là 57.216 ca, lũy kế từ 04/6/2021 đến nay 58.175 ca mắc. Toàn tỉnh đã có 13/13 địa phương thực hiện việc cách ly, điều trị các ca bệnh tại nhà với 50.326 ca, trong đó đã có 50.053 ca khỏi bệnh.

Tình hình điều trị các ca bệnh: Chuyển các Bệnh viện tuyến trên 128 BN. Điều trị khỏi 57.837 BN, trong đó có 124 BN tuyến trên, 57.713 BN tại Hà Tĩnh, 54 BN tử vong.

Tình hình dịch bệnh khác: Trong tháng, trên địa bàn có một số ca bệnh đơn lẻ, cụ thể: 142 ca sốt xuất huyết, 21 ca mắc bệnh quai bị, 33 ca mắc lỵ trực trùng; 39 ca mắc lỵ a míp; 19ca mắc bệnh thủy đậu; 1.699 ca mắc bệnh cúm, tất cả các ca bệnh trên không tạo thành dịch, và không có người chết do các bệnh trên.

Từ đầu năm đến nay đã phát hiện 988 ca sốt xuất huyết (gồm 23 ổ dịch với 299 ca mắc và 689 ca đơn lẻ). Ngoài ra, năm 2022 còn có các ca bệnh đơn lẻ như sau: 3 ca mắc sốt rét (tăng 200,0%), 129 ca mắc bệnh quai bị (tăng 230,77%), 228 ca mắc lỵ trực trùng (tăng 71,43%); 261 ca mắc lỵ a míp (giảm 9,06%); 184 ca mắc bệnh thủy đậu (giảm 74,55%); 14.951 ca mắc bệnh cúm (giảm 7,92%), tất cả các ca bệnh trên không tạo thành dịch và không có ca bệnh nào bị tử vong vì các bệnh nói trên.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Năm 2022, Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tỉnh (Ban Chỉ đạo 138 tỉnh) đã ban hành Kế hoạch số 3817/KH-BCĐ ngày 15/11/2022 về Triển khai Tháng hành động Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2022 (từ ngày 15/11/2022 đến ngày 10/12/2022) với chủ đề “Chấm dứt dịch AIDS - Thanh niên sẵn sàng!”.

Trong tháng, có 3 người nhiễm mới HIV, 1 người chuyển thành AIDS và không có người chết vì AIDS; so với cùng kỳ năm trước giảm 1 người nhiễm mới HIV, giảm 2 người chuyển thành AIDS, số người chết vì AIDS không đổi.

Năm 2022 có 28 người nhiễm mới HIV, 13 người chuyển thành AIDS và 3 người chết vì AIDS, so với cùng kỳ năm trước giảm 27 người nhiễm mới HIV(giảm 49,09%), giảm 37 người chuyển thành AIDS (giảm 74,0%), tăng 1 người chết vì AIDS (tăng 50%).

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm về ATVSTP trên địa bàn tĩnh được tiến hành thường xuyên và có hiệu quả đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành các quy định về ATVSTP của người sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm.

Năm 2022 toàn tỉnh tổ chức thành lập 548 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành và chuyên ngành đã tiến hành kiểm tra 11.464 lượt cơ sở; phát hiện 1.041 lượt cơ sở có vi phạm về an toàn thực phẩm; xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 734 lượt cơ sở (70,5% số cơ sở vi phạm) với số tiền hơn 1,5 tỷ đồng; tịch thu tiêu hủy nhiều hàng hóa vi phạm có giá trị cao.

Trong tháng, không xảy ra vụ ngộ độc tập thể, chỉ có 73 ca ngộ độc đơn lẻ. So với cùng kỳ năm trước số vụ ngộ độc tập thể không đổi, số ca ngộ độc đơn lẻ giảm 99 ca (giảm 57,56%), số ca tử vong không thay đổi.

Tính chung năm 2022 có 1 vụ ngộ độc tập thể làm 4 người bị ngộ độc, xảy ra tại một nhà hàng thuộc xã Cẩm Vĩnh, huyện Cẩm Xuyên; ngoài ra có 887 ca bị ngộ độc đơn lẻ, không có người chết vì ngộ độc; so với cùng kỳ năm trước giảm 2 vụ (giảm 66,67%) ngộ độc tập thể, giảm 49 ca (giảm 92,45%) ngộ độc tập thể, số ca ngộ độc đơn lẻ giảm 357 ca (giảm 28,75%), số ca tử vong không đổi.

5. Hoạt động văn hóa - thể thao

Hoạt động văn hóa: Trong tháng đã diễn ra một số hoạt động văn hóa sôi nổi như: ngày 27/11, đã diễn ra liên hoan các CLB dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh của huyện Hương Sơn đâylà dịp để trao đổi, học hỏi, giữ gìn và lan toả các làn điệu dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh; ngày 12/12 Chi hội văn nghệ dân gian Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức lễ ra mắt câu lạc bộ dân ca – dân vũ Thành Sen và biểu dương một số nghệ nhân dân gian bảo tồn, phát huy các loại hình văn nghệ dân gian trong giai đoạn 2020-2022... Nhìn chung năm 2022 nhờ kiểm soát tốt dịch Covid-19, hoạt động văn hóa sôi nổi hơn so với năm trước.

Công tác kiểm tra, thanh tra văn hóa: Công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động văn hóa được Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Hà Tĩnh kiểm tra theo định kỳ, thường xuyên. Năm 2022, Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch đã tổ chức 6 cuộc thanh, kiểm tra. Qua kiểm tra 154 cơ sở kinh doanh, hoạt động dịch vụ thuộc ngành quản lý đã lập biên bản nhắc nhở đối với 65 cơ sở kinh doanh còn hạn chế, thiếu sót; đình chỉ hoạt động 15 phòng hát karaoke; lập biên bản vi phạm hành chính và ban hành 03 quyết định xử phạt VPHC đối với 03 trường hợp, nộp 17,5 triệu đồng vào ngân sách nhà nước.

Thể thao thành tích cao: Trong tháng, Đoàn thể thao Hà Tĩnh tham gia 11 giải thi đấu đạt 39 huy chương các loại (9 HCV, 15 HCB, 15 HCĐ); trong đó 3 giải quốc tế gồm giải vô địch Karate châu Á 2022 (1HCV, 2HCB); giải đua thuyền Châu Á (1 HCV), giải vô địch bắn súng Đông Nam Á (1 HCĐ); 8 giải trong nước đạt 7HCV-13HCB-14HCĐ.

Tính chung cả năm 2022, Đoàn thể thao Hà Tĩnh tham gia 39 giải đấu, đạt 246 huy chương các loại (92 huy chương vàng, 72 huy chương bạc, 82 huy chương đồng), trong đó 05 giải quốc tế đạt 20 huy chương (9HCV-7HCB-4HCĐ), SEA Games 31 đạt 16 huy chương (6 huy chương vàng, 7 huy chương bạc, 3 huy chương đồng).

Thể thao quần chúng: Nhìn chung năm 2022 nhờ kiểm soát tốt dịch Covid-19, hoạt động thể thao quần chúng có phần sôi động trở lại. Theo báo cáo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến nay tỷ lệ người dân tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 38 %; tỷ lệ gia đình thể thao đạt 27,9 %; cộng tác viên thể dục thể thao cơ sở là 470 người; số câu lạc bộ thể thao phong trào đạt trên 1.050 câu lạc bộ.

Từ ngày 15/11 - 14/12/2022 xảy ra 16 vụ tai nạn đường bộ, làm chết 12 người, bị thương 7 người, thiệt hại tài sản 250 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ tai nạn, giảm 1 người chết, số người bị thương không đổi, thiệt hại tăng 54 triệu.

Tính từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/12/2022 toàn tỉnh đã xảy ra 108 vụ tai nạn đường bộ, 1 vụ tai nạn đường sắt làm chết 91 người, bị thương 46 người, thiệt hại tài sản 1.770 triệu đồng. So với với năm trước giảm 7 vụ tai nạn đường bộ (giảm 6,09%), tăng 1 vụ tai nạn đường sắt; giảm 5 người chết (giảm 5,21%), giảm 4 người bị thương (giảm 8%). Nguyên nhân chủ yếu là không làm chủ tốc độ, đi sai phần đường, sử dụng rượu bia quá nồng độ cho phép khi tham gia giao thông.

7. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Tình hình cháy, nổ: Tính từ ngày 15/11/2022 đến ngày 14/12/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra 17 vụ cháy, nổ không có người chết và bị thương với tổng giá trị thiệt hại ước tính 102,50 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021 tăng 16 vụ; số người chết và bị thương không đổi. Tính chung cả năm 2022, xẩy ra 71 vụ cháy, nổ làm 1 người chết và 1 người bị thương, với tổng giá trị thiệt hại ước tính 5.025,6 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2021 tăng 8 vụ cháy, nổ; giảm 2 người bị thương; giảm 1 người chết. Nguyên nhân chủ yếu do chập điện và bất cẩn khi sử dụng lửa.

Công tác bảo vệ môi trường: Tính từ ngày 15/11 đến ngày 14/12/2022 trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 97 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 59 vụ, với tổng số tiền xử phạt là 210,7 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021 tăng 76 vụ đã phát hiện (tăng 361,90%), tăng 38 vụ đã xử lý (tăng 180,95 %), số tiền xử phạt giảm 1.259,80 triệu đồng (giảm 85,67%).

Năm 2022 (ngày 15/12/2021 - 14/12/2022) đã phát hiện 973 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 642 vụ, với tổng số tiền xử phạt 2.909,12 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước tăng 809 vụ vi phạm (tăng 493,29%), tăng 519 vụ đã xử lý (tăng 421,95%), tăng số tiền nộp phạt 41,27 triệu đồng (tăng 1,44%). Vi phạm môi trường đã phát hiện trong năm vận chuyển, khai thác cát trái phép, sử dụng xung kích điện đánh bắt thủy sản trái phép... gồm 888 vụ (chiếm 91,26%); vận chuyển, chôn, lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 39 vụ (chiếm 4,01%); xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ra môi trường 33 vụ (3,39%), thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 12 vụ (chiếm 1,23%). Gây tiếng ồn, độ rung vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường; xả thải khói, bụi, khí có mùi độc hại vào không khí 1 vụ ( chiếm 0,11%).

Trong tháng, không xảy ra thiên tai, so với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ thiên tai, số người bị thương và bị chết không đổi, giảm thiệt hại 92 triệu đồng. Năm 2022 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã xảy ra 7 vụ thiên tai, cụ thể là 01 vụ sóng to, gió lớn (ngày 3/4); 2 vụ mưa lớn (ngày 30/4-1/5, ngày 27/9-2/10); 3 vụ sét đánh (ngày 26/5, ngày 14/6 và 21/7 ); 01 vụ lốc xoáy (ngày 14/6) làm chết 4 người, 2 người bị thương, làm hư hỏng 1 chiếc tàu, 582 nhà hư hỏng, thiệt hại 522 ha diện tích lúa, 421 ha diện tích hoa màu, 2.000 con gia cầm bị chết. Ước tính tổng thiệt hại là 42.497 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 5 vụ thiên tai, tăng 1 người chết, giảm 2 người bị thương, tổng thiệt hại về tài sản giảm 144.783 triệu đồng.

III. DỰ BÁO, ĐẾ XUẤT GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI

Năm 2023 là năm giữa nhiệm kỳ, năm bản lề đánh giá giữa kỳ triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà sẽ gặp khóa khăn và thách thức do tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, xung đột tại Ukraine có thể còn kéo dài; kinh tế trong nước nước dự báo còn chịu sức ép lạm phát, tỷ giá, lãi suất gia tăng; giá nhiều yếu tố đầu vào, chi phí sản xuất kinh doanh tiếp tục xu hướng tăng; hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thị trường lao động việc làm dự báo còn gặp nhiều khó khăn; biến đổi khí hậu, dịch bệnh tiếp tục diễn biến bất thường, ảnh hưởng nặng nề hơn.

Để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế xã hội theo Nghị quyết của HĐND tỉnh đề ra. Trong thời gian tới cần tập trung giải quyết một số nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ các dự án công nghiệp lớn, trọng điểm: Tập trung khắc phục sự cố và vận hành trở lại Tổ máy số 1 tại Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1; tạo mọi điều kiện để Nhà máy Pin VinES đi vào vận hành và sản xuất theo kế hoạch. Tích cực thu hút đầu tư lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp sau thép, khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu. Tiếp tục tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển dịch vụ logictics.

Hai là, thực hiện đồng bộ giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, phát huy hiệu quả Bộ chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành và các địa phương (DDCI), góp phần nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).

Ba là, tiếp tục rà soát đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi đối với các nhà đầu tư. Tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư, đặc biệt là các dự án lớn, các nhà đầu tư chiến lược như (Vingroup, Sun Group, Ecopark, VSIP, T&T, Quế Lâm...);

Bốn là, chủ động bám sát diễn biến thời tiết, tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra dịch tả lợn châu Phi, dịch viêm da nổi cục trên đàn trâu bò. Tập trung chỉ đạo thực hiện thắng lợi sản xuất các vụ trong năm; chú trọng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.

Năm là, tập trung xử lý các điểm nghẽn, nút thắt về đất đai; giải quyết các xung đột pháp lý về thủ tục giao đất, xác định đơn giá đền bù, thủ tục thanh quyết toán xây dựng cơ bản để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Trước mắt, ưu tiên tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế./.